Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 51
Chủ giảng:
Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo duyệt:
Huệ Trang và Đức Phong
Tập
101
“An
trụ nhất thiết giả, Hội Sớ vân: An
trụ giả, bất động nghĩa. Đức thành
bất thoái, cố viết an trụ. Vô đức bất
cụ, cố vân nhất thiết” (“An trụ hết
thảy”: Sách Hội Sớ giảng: “An trụ nghĩa là
bất động. Đức thành tựu, chẳng lui
sụt, nên bảo là an trụ. Không đức nào chẳng
đầy đủ nên nói là hết thảy”). Trong phần
trước, chúng tôi cũng đă nói đến câu này, từ
chỗ này là khởi đầu của một đoạn.
An trụ, bất luận là sơ học hay là người
tu học đă lâu, đều vô cùng quan trọng, cổ
nhân nói “thân an tắc
đạo long” (thân yên ổn, đạo sẽ hưng
thịnh). Chúng tôi nghĩ đến thời cận
đại, trong thế kỷ này, chẳng có cao tăng
đại đức xuất hiện trên thế gian. Phật
pháp là như thế, mà pháp thế gian cũng chẳng
phải là ngoại lệ. Không chỉ tại Trung Quốc,
mà gần như tại tất cả mọi nơi trên toàn
thể thế giới chúng ta đều thấy [t́nh
trạng như vậy]. Do nguyên nhân nào? Trong thế kỷ
này chẳng có hai chữ “an trụ”! Các xă hội trên toàn
thể thế giới đều rơi vào t́nh trạng
chao đảo, bất an, nên ḷng người chẳng
thể định, rất khó thành tựu! Trên thực
tế, có vấn đề như thế này: Đại
hoàn cảnh bất hảo, xă hội động loạn, nhưng
nếu cá nhân thật sự có thiện căn, có phước
đức, vẫn có thể thành tựu. Thiện căn là
tín tâm kiên định, phước đức là có thể
chịu đựng khổ sở, khó khăn, người như
vậy rất ít, nhưng chẳng phải là không có! Do
vậy, lúc đức Phật sắp nhập diệt, tôn
giả A Nan từng hỏi Phật: “Phật tại thế, chúng con nương tựa
Ngài làm thầy. Ngài chẳng trụ thế, chúng con nên
nương cậy ai?” Đức Phật dạy
một câu: “Lấy giới làm
thầy”, lại c̣n nói thêm: “Lấy
khổ làm thầy”. Nói cách khác, trong thời đại
hiện tiền, chúng ta có thể tŕ giới, có thể
chịu khổ th́ sẽ có thể thành tựu. Đầy
đủ hai điều kiện ấy, bất luận ở
trong thuận cảnh hay trong nghịch cảnh, đều có
thể như như bất động. Cổ đại
đức đă dạy chúng ta bí quyết thành công: “Thâm nhập một môn, huân tu lâu
dài”. Thí dụ như trong hoàn cảnh hiện thời, chính
ḿnh có thể t́m được một nơi rất
hẻo lánh, một chỗ rất lạc hậu; chỗ
lạc hậu là nơi b́nh yên, mọi người chẳng
tranh chấp, chẳng có ai đến giành giật, chắc
chắn là điều kiện vật chất rất kém
cỏi, nhưng là nơi [tu hành] tốt đẹp. Càng kém
cỏi càng tốt, một cái lều tranh bé tí, quư vị
tặng cho người ta, người ta chẳng thèm, coi
thường, đó là chỗ b́nh yên!
Có thể an định mười
năm bất động, quư vị an trụ ở nơi
ấy, học một bộ kinh giáo đến cùng. Người
ta chỉ cần có hai điều kiện như vậy, tŕ
giới bằng cách thực hiện Đệ Tử Quy, Cảm
Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo, đều
thuộc về tŕ giới, cần phải học. Chẳng
có những thứ ấy tức là thiếu cội rễ,
căn cơ của các bậc đại thánh đại
hiền thế gian và xuất thế gian thuộc trong ba
thứ ấy. Ba thứ ấy chẳng khó, [dành ra] thời
gian một năm [để tu tập] là đủ
rồi! Ba thứ ấy chẳng phải để học
suông, chẳng phải để học thuộc ḷng, mà là
mỗi điều đều phải làm được. Đệ
Tử Quy gồm một trăm mười ba điều; Cảm
Ứng Thiên cũng chẳng thể coi là nhiều, nhân
quả thiện ác tổng cộng gồm một trăm chín
mươi lăm điều; Thập Thiện Nghiệp
Đạo là mười điều. Đă vun bồi
bền vững hai căn cội trước (Đệ
Tử Quy và Cảm Ứng Thiên) th́ Thập Thiện
Nghiệp Đạo sẽ chẳng có vấn đề ǵ!
Cũng có nghĩa là Thập Thiện Nghiệp nói chi
tiết sẽ là Cảm Ứng Thiên và Đệ Tử Quy.
Vun bồi bền vững những căn cội ấy, quư
vị là thiện nam tử, thiện nữ nhân, hội
đủ điều kiện! Mười năm học
một bộ kinh Vô Lượng Thọ này nhuần
nhuyễn, mỗi ngày đọc một lần. Nếu có
duyên phận, có thể nghe giảng sẽ càng hay hơn!
Nghe giảng th́ hiện thời chúng ta có đĩa CD/DVD, có
Internet, cũng có truyền h́nh vệ tinh. Do vậy, có duyên
phận th́ có thể thâu lấy để nghe, mỗi ngày
có thể nghe từ bốn tiếng đồng hồ
trở lên, chẳng thể ít hơn bốn tiếng
đồng hồ. Những thời gian khác bèn chuyên
niệm A Di Đà Phật, tâm quư vị sẽ định.
Định chừng dăm ba năm sẽ đắc
Niệm Phật tam-muội, lại có trường hợp
đôi ba năm rất có thể khai ngộ. Đắc
tam-muội là đắc Định, Định có thể khai
huệ. Do vậy, thật sự mong thành tựu th́ trong bất
luận hoàn cảnh nào cũng đều có thể tu hành.
Trong đời loạn, mọi
người ở cùng một chỗ cùng nhau tu hành khá khó
khăn, như trong thời đầu Dân Quốc, xác
thực là thuở ấy có các vị cao tăng đại
đức thật sự muốn mở trường
học nhằm bồi dưỡng nhân tài kế tục,
nhưng v́ chiến tranh, đều chẳng có cách nào
thực hiện viên măn. Pháp sư Ứng Từ mở Hoa
Nghiêm Đại Học, chưa đầy một năm đă
phải đóng cửa. Âu Dương đại sư lập
Chi Na Nội Học Viện coi như có thành tựu
[tốt đẹp] nhất, nhưng cũng chỉ làm
được hai năm, chẳng thể tiếp tục.
Sau chiến tranh, tại Đài Loan, lăo cư sĩ Lư
Bỉnh Nam mở lớp học kinh tại Đài Trung Liên Xă
nhằm bồi dưỡng nhân tài giảng kinh, các đồng
học có hơn hai mươi người, tôi là
người tham gia cuối cùng, cũng chỉ dạy
được hai năm, chẳng mở lớp tiếp
theo, duyên chẳng dễ dàng. Tôi học kinh giáo với
thầy Lư từ ngay trong lớp học ấy. Nếu
chẳng có lớp ấy th́ thật sự là ngay cả kinh
giáo tôi cũng chẳng được học! Tuy thời
gian chẳng dài, tôi vẫn được gặp gỡ. V́
thế, “an trụ hết
thảy” quan trọng hơn bất cứ ǵ khác. Chẳng
có cơ duyên, chúng ta phải nghĩ cách t́m cơ hội, một
người sống cuộc đời đơn giản,
kham khổ, chẳng cần được hộ tŕ
rất nhiều, có được một hai người nhiệt
tâm hộ pháp chiếu cố quư vị bèn chẳng có
vấn đề ǵ! Cuộc sống càng đơn giản
càng hay, người thật sự tu hành một ngày ăn
một bữa là được rồi, mỗi ngày ăn
một bữa giữa trưa!
Đại khái, lăo cư sĩ
Lư Bỉnh Nam gặp gỡ Phật pháp khi cụ đă ngoài
ba mươi tuổi, c̣n trễ hơn tôi, tôi gặp Phật
pháp lúc hai mươi sáu tuổi. Cụ bảo tôi [cụ
gặp Phật pháp] lúc tuổi đă ngoài ba mươi. Sau
khi gặp Phật pháp không lâu, cụ bèn quá ngọ chẳng
ăn, [mỗi ngày] ăn hai bữa, rồi hai ba năm sau
bữa sáng cũng bỏ luôn, mỗi ngày ăn một
bữa, suốt đời chẳng thay đổi. Rất
khó có! Giảm bớt rất nhiều chuyện. Tự ḿnh
chăm sóc chính ḿnh, ăn cơm do tự ḿnh nấu,
quần áo do chính ḿnh giặt, tự ḿnh chăm sóc bản
thân măi cho đến lúc chín mươi lăm tuổi vẫn
là tự ḿnh chăm sóc chính ḿnh. Hai năm cuối cùng cụ
mới đồng ư tiếp nhận hai học tṛ phát tâm
chăm nom. Trước đó, có người muốn
chăm sóc cụ, cụ không chịu. Tôi học Giáo với
cụ tại Đài Trung, cũng chịu ảnh
hưởng bởi sự thân giáo của cụ. Do vậy,
lúc tôi ở Đài Trung là ba mươi mấy tuổi, tôi
cũng học theo cụ mỗi ngày
ăn một bữa. Tôi ăn đến tháng thứ tám
mới tŕnh với cụ, tôi nói: “Thưa thầy, hiện
thời mỗi ngày con ăn một bữa”. “Đă bao lâu?” “Tám
tháng rồi ạ!” “Thế nào? Thân thể có biến hóa hay
không?” Tôi thưa: “Rất b́nh thường”. Cụ vỗ
bàn: “Hăy vĩnh viễn ǵn giữ, suốt đời
chẳng phải cầu cạnh ai!” Cuộc sống
đơn giản, nhu cầu rất ít, một
người nhiệt tâm hộ pháp là đủ rồi,
chẳng cần phan duyên. Cổ nhân nói: “Nhân đáo vô cầu, phẩm tự cao”
(người đạt đến không mong cầu,
phẩm hạnh tự cao). Nhất định phải
biết tiết kiệm, tích phước, trọng yếu
hơn bất cứ điều nào khác! Do vậy, có
quyết tâm, có nghị lực, trong xă hội rối ren, chính
ḿnh có thể như như bất động. Hăy học
theo Quảng Mục thiên vương trong tứ đại thiên
vương, Ngài biểu thị ư nghĩa sau đây: Trong thời
cuộc rối ren, có thể giữ cho chính ḿnh bất
động, thứ ǵ cũng có thể thành tựu. Do
vậy, ở đây, tôi biểu lộ ư nghĩa ấy cùng
quư vị: “An trụ giả,
bất động nghĩa” (An trụ nghĩa là bất
động).
“Đức
thành bất thoái” (đức thành tựu chẳng lui
sụt), “đức”
được nói ở đây là Giới và Định. Chúng
ta có thể học tốt đẹp Đệ Tử Quy, Cảm
Ứng Thiên và Thập Thiện Nghiệp, hoàn toàn thực
hiện trong cuộc sống hằng ngày, xử sự,
đăi người, tiếp vật, tâm vĩnh viễn bất
thoái. Sau đấy, một mục tiêu, một phương
hướng, chuyên tu Tịnh Độ, phương
hướng ấy là Tây Phương Cực
Lạc thế giới, mục tiêu ấy là thấy A Di
Đà Phật, tâm phải định, quyết định
chẳng thay đổi, đức sẽ thành tựu, thành
tựu bất thoái, đó là “an
trụ”.
“Vô
đức bất cụ, cố vân nhất thiết”
(Không đức nào chẳng đủ, nên gọi là “hết
thảy”): Có thể buông xuống hết thảy, đó là “vô đức bất cụ”. Chúng
ta buông xuống chấp trước đối với hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Không
chỉ chẳng chấp trước, mà tốt nhất là
phân biệt cũng chẳng có. Làm thế nào để có
thể đạt được? Chuyên tâm nơi kinh giáo,
nhất tâm niệm Di Đà, sẽ thực hiện
được! Kinh Hoa Nghiêm nói “một
tức là hết thảy, hết thảy tức là một”,
một bộ kinh này là đủ rồi. Không chỉ là những
kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn
mươi chín năm, mà giáo huấn của mười
phương ba đời hết thảy Như Lai và Pháp
Thân Bồ Tát cũng đồng thời viên măn trọn
đủ trong ấy. Đặc biệt là trong xă hội
giống như hiện thời, nắm vững bộ kinh
này, một câu Phật hiệu, chẳng có ai không thành
tựu. Chúng ta nhất định phải hiểu
đạo lư này, phải hiểu rơ, thật sự phát tâm y
giáo phụng hành. “Tiền dẫn
Hạnh Nguyện Phẩm trung, ư nhất niệm trung, sở
hữu hạnh nguyện giai đắc thành tựu giả”
(trong phẩm Hạnh Nguyện như đă dẫn trong
phần trước, trong một niệm, tất cả
hạnh nguyện đều được thành tựu).
Trong phần trước đă từng dẫn câu kinh
văn này của phẩm Hạnh Nguyện, ở đây,
[cụ Hoàng] giải thích: “Tức
thị nhất niệm trung, viên thành hạnh nguyện”
(tức là trong một niệm, thành tựu viên măn hạnh
nguyện). “Viên” (圓) là viên măn, “thành”
(成) là thành tựu, [“viên thành hạnh nguyện” là]
trong một niệm thành tựu viên măn Phổ Hiền
đại hạnh và Di Đà đại nguyện. “Cố năng an trụ ư Như
Lai nhất thiết Phật quả công đức chi pháp”
(nên có thể an trụ trong hết thảy các pháp công
đức nơi Phật quả của Như Lai), pháp môn Niệm
Phật đă được đại diện viên măn.
Chúng ta lại xem đoạn
tiếp theo: “Du bộ thập phương,
hành quyền phương tiện”. [Những đoạn
kinh văn ở] phía trước câu này nói về sự
thành tựu trong tự hành nơi sự tu hành của chúng
ta, c̣n câu này nói về hóa tha (hóa độ người khác).
Sau khi chúng ta thành tựu, phải giúp đỡ hết
thảy chúng sanh khổ nạn, cho nên chẳng thể
trụ tại một nơi. Hai hôm trước, có một
vị pháp sư Nhật Bản đến thăm
viếng, đó là sư Trung Tây Tùy Công (Nakanishi
Zuikou), tôi quen biết Sư chắc cũng
mười năm. Mấy năm trước, tôi đă sang
Nhật Bản sáu lần, tôi đến thăm núi Tỷ
Duệ (Hiei-zan) của Nhật Bản, người Nhật
gọi núi này là “mẹ của
Phật giáo”. Phật giáo Nhật Bản có mười
ba tông phái, nhiều hơn Trung Quốc. Tổ sư khai
sơn của mười ba tông phái ấy đều tu hành
trên núi ấy. Do vậy, tôi nhất định phải
đến viếng núi ấy ḥng liễu giải đôi
chút. Thuở ấy, những vị tổ sư đại
đức tu hành trên quả núi ấy, chẳng hạ
sơn, thời gian trụ tại đó lâu nhất là bao nhiêu
năm? Họ bảo tôi: “Hơn ba mươi năm!” Hơn
ba mươi năm chẳng hạ sơn! Ngắn nhất
là bao nhiêu? Mười bốn năm. Do vậy, các vị
ấy có thành tựu. Cổ nhân Trung Quốc thường nói:
“Thập tải hàn song,
nhất cử thành danh” (mười năm quạnh
quẽ, thi đậu thành danh). Chẳng đổ công
sức từ mười năm trở lên sẽ chẳng
được, điều ấy chính là khuôn mẫu
rất tốt cho chúng ta. Tôi di dân sang Úc, lập ra Tịnh
Tông Học Viện để cúng dường đại
chúng, hy vọng đại chúng thật sự an tâm tu hành
ở nơi đó, có thể đạt được
một chút thành tựu. Thuở ấy, tôi ấn
định kỳ hạn tu học là chín năm, có
người bảo tôi “thời gian chín năm quá dài, có
thể rút ngắn thành bảy năm hay không?” Tôi cũng
không giữ vững chủ ư, khéo sao đúng dịp ấy, sang
Nhật Bản họp, sau khi đến thăm núi Tỷ
Duệ trở về, [tôi thấy] chín năm chẳng
thể giảm bớt! Người ta tu hành trên núi tối
thiểu là mười bốn năm, thời gian chín năm
của chúng ta há c̣n có thể giảm bớt
được sao? Xác định [thời gian tu hành
tối thiểu phải] là chín năm.
Năm nay đă tṛn chín năm
rồi, sang năm là kỷ niệm tṛn mười năm,
học viện của chúng ta có thành tựu hay không? Thưa
cùng quư vị, chẳng có! Do nguyên nhân nào? Chẳng thể
thực hiện đúng theo quy củ. Chúng tôi đă dạy
ba căn cơ Nho, Thích, Đạo chẳng ít năm,
nhưng chẳng có ai thật sự chịu làm! Lại c̣n
có một điều nữa là “thâm
nhập một môn, huân tu lâu dài” cũng chẳng có ai làm
được! Do vậy, tôi bảo mọi người, v́
tuổi tác của họ kể ra cũng chưa cao, nói
chung cũng gần năm mươi tuổi rồi,
vẫn c̣n được hay sao? Được chứ!
Ở Đại Lục đă có một tấm
gương: Một vị tại gia cư sĩ năm
mươi lăm tuổi mới bắt đầu học
tập, bắt đầu [học Phật] từ năm
mươi lăm tuổi (trước đó chẳng hề
tiếp xúc Phật pháp), sáu mươi lăm tuổi đạt
thành tựu. Tiếc là bà ta tại gia, chẳng xuống tóc;
nếu xuống tóc, sẽ lập tức thăng ṭa thành
đại pháp sư. Bà ta cho tôi biết bà đă học
một bộ kinh Vô Lượng Thọ suốt
mười năm, học như thế nào? Mỗi ngày bà
ta nghe một đĩa CD ghi lời giảng kinh Vô
Lượng Thọ của tôi, nên biết đó là bài
giảng trong mười năm trước, chưa
được tỉ mỉ như hiện thời. Toàn
bộ bản kinh giảng xong trong sáu mươi giờ.
Sáu mươi đĩa CD, mỗi ngày bà ta nghe một
đĩa, mỗi đĩa là một giờ, nhưng bà ta
nghe lập đi lập lại đến mười tiếng
đồng hồ, nên mỗi ngày nghe kinh mười
tiếng! Bà ta nói: Đối với bà ta, nghe kinh hết
sức hữu dụng! V́ sao? Vọng niệm chẳng c̣n
nữa, ngoài nghe kinh ra là niệm Phật. Nghe bộ kinh này
từ đầu đến cuối xong xuôi, lại nghe
từ đầu, nghe xong bèn nghe lại từ đầu,
nghe suốt mười năm bèn thành công. Bà ta không chỉ
thuộc ḷng kinh văn, mà ngay cả chú giải cũng nằm
ḷng. Hiện thời, lên ṭa giảng kinh, bà ta chẳng
cần đến kinh sách, cũng chẳng cần tài
liệu tham khảo. Hơn nữa, lại c̣n ra sao? Hễ
tiếp xúc bèn thông suốt. Giảng vô cùng viên măn, thật sự
khiến cho kẻ khác trông thấy chẳng thể nào không
bội phục. Bà sống trong một gia đ́nh rất
khổ nhọc, điều kiện vật chất tột
bực kém cỏi, nhưng có thể chịu đựng
khổ sở, chịu đựng nhọc nhằn,
suốt đời chẳng tranh chấp với ai, chẳng
mong cầu ǵ nơi cơi đời, nên thành công. Đây là
một tấm gương tốt cho chúng ta, bà ta năm
mươi lăm tuổi mới bắt đầu, tôi
thấy các đồng học trong Tịnh Tông Học
Viện chúng ta nói chung vẫn chưa đến năm
mươi lăm tuổi, vẫn c̣n kịp chán! Nếu
đến sáu mươi lăm tuổi mà chẳng có thành
tựu ǵ th́ thôi rồi, vấn đề nghiêm trọng
lắm đấy!
Sau khi đă thành tựu,
muốn báo ân Phật và báo ân chúng sanh th́ báo đáp như thế
nào? “Du bộ thập
phương, hành quyền phương tiện. Thử
nhị cú sơ tán đại sĩ chi Quyền Đức”
(Dạo chơi mười phương, hành phương
tiện quyền biến: Hai câu này trước hết là
tán thán Quyền Đức của bậc đại
sĩ). Đây là phương tiện thiện xảo
của các vị Bồ Tát. “Du
bộ thị du hành dữ du hóa chi nghĩa” (“Du bộ”
nghĩa là du hành và du hóa). “Du
hành” là tầm sư phỏng đạo, khi chính ḿnh c̣n
chưa thành tựu, chỗ nào có bậc cao nhân, có bậc
đại đức, ta bèn đến thân cận,
hướng về vị ấy thỉnh giáo, đó là “du hành”. Như thuở Thích Ca Mâu
Ni Phật tại thế, mười chín tuổi ĺa nhà,
đó là du hành, đi tham học, đến khi ba
mươi tuổi Ngài đă tham học mười hai
năm. Những cao tăng đại đức trong
giới tôn giáo và các bậc cao nhân trong giới học
thuật Ấn Độ Ngài đều thân cận,
đức hạnh và học vấn đă thành tựu. Tuy
thành tựu, vấn đề vẫn chưa
được giải quyết, người b́nh
thường sẽ ngừng ở đó, nhưng Thích Ca Mâu
Ni Phật chẳng cam tâm, không đành chịu, Ngài ngồi
dưới cội cây Tất Bát La (Pippala) bên sông Hằng,
[cây ấy] nay được gọi là Bồ Đề
Thụ (cây Bồ Đề), nhập Định tại
đó, buông sở học trong mười hai năm xuống,
nhập Thiền Định sâu hơn. Lại nhập Thiền
Định sâu hơn Tứ Thiền Bát Định đă
học trước đó, cuối cùng thành tựu
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, khi
ấy, đức Phật đă ba mươi tuổi. Sau
khi kiến tánh, kiến tánh bèn thành Phật, chẳng c̣n du
hành nữa, mà là du hóa; “hóa”
là giáo hóa chúng sanh. Sau khi chính ḿnh đă thành tựu, nhất
định phải thành tựu người khác. Thành
tựu chính ḿnh là v́ lẽ nào? Nhằm giáo hóa người
khác. Đấy cũng là như trong Tứ Hoằng Thệ
Nguyện đă nói: “Chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ”, phải thực
hiện nguyện ấy, chẳng thể nói rồi không
làm! “Thập phương”:
Suốt đời lăo nhân gia xác thực là du hóa, chẳng có
nơi chốn nhất định, nhưng học tṛ khâm
phục Ngài tột bậc, Ngài đi đến nơi
đâu, họ theo đến đó. Số lượng
những học tṛ [thường xuyên] theo Ngài chẳng ít!
Từ kinh điển, ta thường thấy [ghi chép con
số Thường Tùy Chúng] là một ngàn hai trăm năm
mươi lăm người, một đoàn thể to
ngần ấy! Buổi tối nghỉ ngơi dưới
cội cây, mỗi người t́m một cội cây to
để ngồi nhập Định, nghỉ ngơi
dưới gốc cây. Ban ngày th́ giảng kinh, giáo học
trong rừng cây, nhưng ban ngày c̣n có một công khóa nữa,
phải đi ra ngoài khất thực. Giữa trưa ăn
một bữa, nghỉ dưới cội cây, suốt
một đời sống như vậy. V́ thế,
đức Phật dạy chúng ta: “Lấy giới làm thầy, lấy khổ làm
thầy”. Ngài đă làm được, nêu gương cho
chúng ta thấy. Đúng là “buông xuống vạn duyên”, trong
tâm chẳng có tạp niệm, chẳng có vọng
tưởng, lúc ấy mới có thể thành tựu.
“Thập
phương giả, Đông, Tây, Nam, Bắc tứ
phương” (Mười phương là bốn
phương Đông,
“Hành
quyền phương tiện giả, Quyền đối
Thật nhi thuyết” (“Hành Quyền phương
tiện”: Quyền là nói đối ứng với Thật).
Thật (實) là chân thật, Quyền (權) là quyền biến. Chân thật là Thể,
là tự tánh, tánh thể. Quyền là khởi Dụng (sanh
khởi tác dụng). Từ Thể khởi Dụng
chẳng do ư nghĩ của chính ḿnh, quư vị phải
hiểu điều này! Chư Phật, Bồ Tát, Pháp Thân
đại sĩ ứng hóa trong thế gian, bất luận
là đường nào trong lục đạo đều
chẳng khởi tâm động niệm. Như Thích Ca Mâu Ni
Phật cũng giống như vậy, Ngài ứng hóa trên thế
gian chẳng hề khởi tâm động niệm. [Nếu
là] chẳng khởi tâm động niệm, cớ sao Ngài có
thể hiện tướng? Làm sao có thể thuyết pháp
cho được? Đấy là Ngài “hành quyền phương tiện”. Chúng ta trông thấy
tướng mạo của đức Phật, nhưng chính
đức Phật chẳng chấp tướng. Chúng ta
nghe đức Phật thuyết pháp, trên thực tế, đức
Phật hoàn toàn chẳng thuyết pháp. Do vậy, trong kinh
Bát Nhă nói: Nếu ai nói đức Phật giảng kinh, thuyết
pháp, kẻ đó báng Phật! Không nói mà nói, nói nhưng
chẳng nói, quả thật, đức Phật chẳng
nói. V́ sao Ngài có thể nói? Chúng sanh có cảm, Ngài tự nhiên
phản ứng. Sự “ứng” ấy chính là pháp vốn
sẵn như thế (pháp nhĩ tự nhiên). Đă có
người từng hỏi đức Phật chuyện
này, trong các đệ tử đức Phật, ngài Xá
Lợi Phất trí huệ đệ nhất, có
người hướng về đức Phật
thỉnh giáo: “Trí huệ của ngài Xá Lợi Phất do
đâu mà có? V́ sao có trí huệ to lớn ngần ấy?” Đức
Phật dùng cái trống làm tỷ dụ, trống th́
mọi người đều từng thấy, nó là
một thứ nhạc khí đă có từ lâu đời. Ngài
nói: “Cái trống th́ các ông có biết hay không?” [Đại
chúng thưa]: “Dạ biết”. “Trong bụng cái trống có
ǵ hay không? Chẳng có ǵ, rỗng tuếch. Hai tấm da
bọc lấy một khoảng trống rỗng.
Đức Phật dạy: “Tâm Xá Lợi Phất giống
như cái trống, trong ấy thứ ǵ cũng đều
chẳng có, nhưng nếu quư vị gơ nó, gơ mạnh ắt
kêu to, gơ nhẹ ắt kêu nhỏ. Chẳng gơ sẽ không kêu”.
Bất luận quư vị hỏi ngài Xá Lợi Phất
vấn đề ǵ, Ngài đều đối đáp
lưu loát. Ngài có dấy lên ư niệm hay không? Chẳng có! Do
vậy, đúng là “không nói mà nói”,
“nói” chính là ứng. Ngài chẳng
khởi tâm động niệm, chẳng phân biệt, chấp
trước, Ngài có nói ǵ đâu! Cùng một đạo lư
giống như vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh,
thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, có nói hay
chăng? Một chữ cũng chẳng nói! V́ sao chúng ta có
nói? Khởi tâm động niệm, suy nghĩ lời này nên
nói theo cách nào, đó là “có nói”! Người ta chẳng
khởi tâm, không động niệm, cớ sao có thể thuyết
pháp? Bởi lẽ, nói chính là “không
nói mà nói”. Lũ phàm phu chúng ta chẳng biết nghe,
người biết nghe sẽ nghe theo cách nào? Nghe mà
chẳng nghe, chẳng nghe mà nghe, đó là biết nghe, hoàn
toàn đối ứng với Phật. Do vậy, chúng ta nghe
đức Phật thuyết pháp thường hiểu sai ư
Phật, [những ư nghĩa mà chúng ta tưởng là hiểu
ư Phật, thật ra] đều là ư nghĩa của chính
ḿnh, chẳng phải là ư nghĩa của Phật. V́
thế, “nguyện giải Như
Lai chân thật nghĩa” rất khó thực hiện! Chúng
ta phải hiểu Quyền và Thật, chứng đắc
Thật th́ mới có Quyền. Chẳng chứng Thật
sẽ chẳng có phương tiện thiện xảo.
Chúng ta có phương tiện, nhưng chẳng có thiện
xảo trong đó!
“Cụ
quyền nghi dữ quyền biến chi nghĩa”: Chữ
Quyền này có hai ư nghĩa là quyền nghi (權宜:
mềm mỏng khéo léo biến hóa sao
cho thích hợp với t́nh thế) và quyền biến (權變:
ứng xử linh động). “Tục vị thông quyền
đạt biến” (nói thông tục là “thông đạt
quyền biến”), nói theo cách hiện thời, người
ấy thông minh, trí huệ, có thể tùy cơ ứng
biến, nói đến loại người này. “Thông quyền đạt
biến” là tùy cơ ứng biến, năng lực
ứng biến vô cùng mạnh mẽ. Những vị Bồ
Tát ấy đă ứng biến đến mức viên măn
rốt ráo, cũng là như cổ nhân đă nói: “Dĩ bất biến ứng
vạn biến” (dùng không thay đổi để
ứng phó muôn vàn sự thay đổi), họ đă làm
được, thật sự chẳng thay đổi, có
thể ứng phó vô lượng vô biên biến hóa. Chúng ta
chẳng có cách nào học được điều này. Tuy
không học được, nhưng nếu chúng ta dùng
phương pháp Giới - Định - Huệ để tu
học, đến một ngày nào đó, chúng ta cũng có
thể đại triệt đại ngộ, minh tâm
kiến tánh, năng lực trí huệ ấy hoàn toàn
xuất hiện, chẳng cần phải học mà thảy
đều xuất hiện. V́ sao? Trong tự tánh vốn
sẵn trọn đủ, trọn đủ trí huệ, trong
trí huệ có Thật Trí và Quyền Trí, trọn đủ
thần thông, trọn đủ tướng hảo. “Quyền diệc tức Phương
Tiện chi dị danh” (Quyền cũng chính là tên gọi
khác của Phương Tiện). Do đó, phương
tiện và quyền xảo thường được nói
gộp chung. Phương (方) là phương pháp, Tiện (便) là tiện nghi (thuận tiện). Tiện
Nghi (便宜)
nghĩa là phương pháp thích hợp nhất.
Phương pháp thích hợp nhất chẳng có nhất
định, do người, do sự, do thời, do nơi
chốn mà [áp dụng những phương pháp] khác
biệt, vận dụng xảo diệu dường ấy
nên gọi là “phương
tiện pháp”. V́ thế, nó (Quyền) là tên gọi khác
của Phương Tiện.
“Pháp
Hoa Văn Cú viết” (sách Pháp Hoa Văn Cú nói), bộ sách
này do Trí Giả đại sư trước tác. Ngài
giải thích: “Phương giả,
pháp dă” [có nghĩa là] Phương là phương pháp, “Tiện giả, dụng dă”
(Tiện là sử dụng). [Phương Tiện] là sử
dụng rất thuận tiện, trôi chảy, chẳng
bị chướng ngại. “Thiển
ngôn chi, Phương thị phương pháp, Tiện
thị tiện lợi. Án Phật giáo nghĩa, tắc
như Đại Tập kinh vân” (Nói nông cạn,
Phương là phương pháp, Tiện là tiện lợi.
Xét theo ư nghĩa của lời Phật dạy th́ như trong
kinh Đại Tập đă nói), đây là như trong kinh,
đức Phật đă nói: “Năng
điều chúng sanh, tất linh thú hướng A Nậu
Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, thị danh Phương
Tiện” (có thể điều phục chúng sanh,
khiến cho họ đều hướng đến Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác th́ gọi là
Phương Tiện). Ư nghĩa này sâu xa! Quư vị có
thể “điều” chúng sanh,
“điều” (調) là điều giáo (調教:
điều phục, giáo hóa).
Người Trung Quốc thường điều phục
(uốn nắn vào khuôn khổ) rồi mới dạy
bảo. “Điều giáo”
chúng sanh cần phải có trí huệ, phải có phương
pháp. Chúng sanh rất dễ dàng tiếp nhận, mà cũng có
thể hiểu rất rơ ràng, vui vẻ y giáo phụng hành, họ
sẽ thành công. Ở đây, đức Phật đă nói
cho chúng ta biết mục tiêu này, có thể nói đó là tông
chỉ giáo học của Phật pháp. Nếu người khác
hỏi chúng ta, Phật giáo nhằm dạy điều ǵ? Tông
chỉ của ngàn kinh muôn luận giống nhau, bất
luận là Hiển Giáo, Mật Giáo, Đại Thừa,
Tiểu Thừa, Tông Môn, Giáo Hạ, chư vị phải
biết đều là một mục tiêu này, tức là A
Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Từ
ngữ này là tiếng Phạn dịch âm, có thể dịch
nghĩa sang tiếng Hán, v́ sao chẳng dịch? Do tôn
trọng nên không dịch. Nó chính là tổng phương
hướng, tổng mục tiêu mà Thích Ca Mâu Ni Phật đă
dạy con người. Điều này vô cùng trọng
yếu, cho nên giữ nguyên [âm đọc] tiếng Phạn,
v́ tôn trọng chẳng dịch. Dịch sang nghĩa
tiếng Hán hóa ra khá đơn giản, [chỉ gồm] sáu
chữ là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. A
dịch thành Vô, Nậu Đa La dịch là Thượng, Tam dịch
thành Chánh, Miệu dịch thành Đẳng, chữ Tam
kế tiếp cũng là Chánh, Bồ Đề là Giác. Quư
vị thấy gộp lại sẽ là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, Phật pháp chính là điều này.
Trong ấy có ba chuyện, nói
từ phần sau th́ điều thứ nhất là Chánh Giác,
tức Tam Bồ Đề (Sambodhi), người nào
đạt được? A La Hán đạt
được! Đạt được bằng cách nào?
Đoạn Kiến Tư phiền năo. Đă đoạn Kiến
Tư phiền năo bèn chứng Tam Bồ Đề tức Chánh
Giác, được gọi là A La Hán. Lại nâng cao lên
một bậc là Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là Tam
Miệu Tam Bồ Đề (Samyak Sambodhi), Bồ Tát chứng
đắc Chánh Đẳng, cao hơn A La Hán,. Các Ngài chứng
đắc bằng cách nào? Bồ Tát không chỉ đoạn
Kiến Tư phiền năo, mà Trần Sa cũng đă đoạn,
Vô Minh cũng phá một phẩm, như vậy th́ mới có
thể chứng đắc Chánh Đẳng Chánh Giác. Đẳng
là bằng Phật, nhưng vẫn chưa đạt
tới [địa vị] Phật, c̣n kém một cấp.
Địa vị cao nhất là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác (Anuttara Samyak Sambodhi), Phật chứng
đắc [quả vị này]. Đấy là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước thảy
đều buông xuống. Toàn bộ Vô Thỉ Vô Minh,
Trần Sa phiền năo, Kiến Tư phiền năo như trong
giáo pháp Đại Thừa thường nói đều đoạn
sạch, trở về tự tánh, minh tâm kiến tánh, đó
mới là “ĺa khổ,
được vui”. Quư vị thấy A La Hán chứng
đắc Chánh Giác, thoát ly nỗi khổ trong lục
đạo, chẳng c̣n luân hồi trong lục đạo, Ngài
đạt đến bốn thánh pháp giới, tức Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Chứng đắc Chánh
Đẳng Chánh Giác chính là Phật pháp giới trong bốn
thánh pháp giới. Đối với sự khổ trong
bốn thánh pháp giới th́ [những nỗi khổ] trong các
pháp giới thấp hơn (lục phàm) đă không c̣n
nữa, Thanh Văn và Duyên Giác đă ĺa khỏi, Bồ Tát và
Phật [trong bốn thánh pháp giới] vẫn c̣n Thọ, do
vẫn c̣n có khởi tâm động niệm. Khởi tâm
động niệm là Vô Thỉ Vô Minh, công phu c̣n phải
nâng cao hơn một bậc, nâng cao tới mức chẳng
khởi tâm, không động niệm, đó là thật
sự an trụ. Chẳng khởi tâm, không động niệm,
lúc ấy bèn chứng đắc Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, đă thành Phật, vĩnh viễn
thoát ĺa nỗi khổ trong mười pháp giới. Ĺa khổ
được vui có cấp bậc, có tầng lớp, thật
sự đă ĺa khổ! Mười pháp giới đều
gọi là thế gian, thật sự xuất thế gian là phải
vượt thoát mười pháp giới th́ mới thật
sự là xuất thế gian, vĩnh viễn thoát khỏi
hết thảy các nỗi khổ trong thế gian, ĺa
khổ được vui. Chẳng phải giống như
chúng ta trong hiện tại, không có cái ǵ để ăn,
được cho một chút thức ăn bèn [cảm
thấy] ĺa khổ được vui; chẳng có cái mặc,
được cho một ít quần áo để mặc
[bèn cảm thấy là ĺa khổ, được vui], không
phải vậy, chuyện như vậy quá nhỏ nhặt!
Những chuyện ấy đức Phật giao cho chúng ta
để chúng ta tự ḿnh lo liệu, c̣n những
chuyện khổ vui to lớn th́ Phật, Bồ Tát đến
giúp chúng ta lo toan, những việc nhỏ nhặt sẽ do
chính ta lo liệu.
Trong thế gian này, trong các
phần trước, chúng tôi đă nói rất nhiều, cầu
của cải được của cải, cầu thông
minh, trí huệ, được thông minh, trí huệ, cầu
trường thọ được trường thọ, chẳng
có ǵ quư vị không cầu được! Chỉ cần quư
vị nương theo đạo lư và phương pháp do
đức Phật đă dạy để cầu, hữu
cầu tất ứng! Nhưng có lúc chúng ta cầu mà
chẳng ứng là do nguyên nhân nào? Tôi học những pháp này
từ Chương Gia đại sư lúc hai mươi
mấy tuổi, lăo nhân gia rất từ bi, thường
dạy bảo tôi. Thầy nói: “Khi anh cầu mà chẳng có cảm
ứng th́ chẳng phải là không có cảm ứng, mà là do
bản thân anh có nghiệp chướng khiến cho sự
cảm ứng ấy bị chướng ngại. Nếu
sám trừ nghiệp chướng, cảm ứng sẽ hiện
tiền, chẳng phải là không có cảm ứng!” Tôi
hướng về thầy thỉnh giáo: “Diệt trừ nghiệp
chướng bằng cách nào?” Ngài bảo tôi sám hối. Nói
đến sám hối, đại sư dạy tôi: “Phật pháp trọng thực
chất, chẳng coi trọng h́nh thức”, dạy tôi
pháp môn ấy. Sám hối trên mặt h́nh thức chẳng
quan trọng, phải là từ thực chất. Thực
chất là ǵ? Thực chất là sau đấy không làm
nữa! Ta biết chính ḿnh đă làm sai, ta cũng hiểu
như người Trung Quốc đă nói “bất nhị quá” (không phạm lỗi ấy
lần nữa), đó là chân sám hối, chẳng chú
trọng h́nh thức. Trong các học tṛ của Khổng phu
tử, chỉ có một người “bất nhị quá” thường được phu
tử tán thán là Nhan Hồi. Có thể thấy là những
người khác đều làm không được, đều
vẫn thường phạm lầm lỗi. Chỉ có một
ḿnh Nhan Hồi rất lỗi lạc, Ngài đạt
được “bất nhị
quá”. Do đó, thầy dạy tôi: Sám trừ nghiệp
chướng th́ sau ấy hễ có cầu nhất
định có ứng. V́ vậy, chúng ta hiểu rơ: Nếu chúng
ta cầu tài, cầu trí huệ, luôn v́ tự tư tự
lợi mà cầu, sợ rằng đều chẳng có
cảm ứng. Nếu chúng ta cầu tài, cầu trí huệ nhằm
phục vụ chúng sanh, giúp đỡ những chúng sanh
khổ nạn trong xă hội th́ sẽ có cảm ứng. Quư
vị thấy: Chẳng v́ chính ḿnh th́ mới
được, v́ sao? Chúng ta có thể nghĩ thông suốt
lư ấy, [lư ấy] chẳng phải là rất sâu. Nếu là
v́ tự tư tự lợi bèn cầu Phật, Bồ Tát mà
có cảm ứng, chẳng phải là Phật, Bồ Tát
cổ vũ, khích lệ chúng ta tự tư tự lợi
ư? Chẳng phải là dạy chúng ta làm sai, làm ác ư? Há
có Phật, Bồ Tát như vậy? Yêu ma, quỷ quái
mới làm chuyện ấy, Phật, Bồ Tát chẳng làm
chuyện đó! Chắc chắn là tâm hạnh của chúng
ta phải rất gần gũi chư Phật, Bồ Tát,
đồng tâm, đồng nguyện, đồng giải,
đồng hạnh với chư Phật, Bồ Tát th́
chắc chắn có cảm ứng, chẳng hề không có cảm
ứng. Do vậy, câu kinh Đại Tập này có ư nghĩa
rất sâu, đă chỉ ra tổng phương
hướng và tổng mục tiêu trong sự tu học Phật
pháp.
“Hựu
như Pháp Hoa Huyền Tán vân: Thi vi khả tắc viết Phương,
thiện đậu cơ nghi viết Tiện” (Lại
như sách Pháp Hoa Huyền Tán giảng: “Việc làm có
thể nêu gương là Phương, khéo phù hợp cơ
nghi là Tiện”). Ở đây, ư nghĩa [chữ
Phương Tiện] được giảng rất sâu. “Thi vi”: Thi (施) là bố thí, giúp đỡ người
khác. “Khả tắc”(可則: có thể nêu
gương, tạo thành khuôn phép):
Tiêu chuẩn trong câu này cao lắm! Việc làm của chúng ta
có thể nêu gương tốt cho đại chúng trong xă
hội th́ gọi là Phương. Ư nghĩa này giống
như tại trường đại học sư phạm
Bắc Kinh, h́nh như là phía trước đại lễ
đường có treo tấm biển ghi tám chữ: “Học vi nhân sư, thân vi
thế phạm” (học làm thầy người, thân làm
gương mẫu cho cơi đời). Tám chữ ấy chính
là “thi vi khả tắc”. Hôm
tôi đến thăm trường ấy, có ông Phó Hiệu
Trưởng bồi tiếp, tôi thấy tám chữ ấy,
bèn thưa với ông Hiệu Trưởng: “Thưa hiệu
trưởng! Tám chữ ấy chính là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh trong Phật giáo”.
Ông ta nghe nói, sững sờ: “Kinh Hoa Nghiêm nói như vậy
à?” “Đúng vậy! Cả bộ kinh Hoa Nghiêm nhằm
giảng tám chữ này!” Tôi sửa một chữ, đổi
chữ Thân trong câu “thân vi
thế phạm” thành Hành, Hành có ư nghĩa rộng hơn
Thân. Nhà trường cũng chấp nhận, sau đấy
họ sửa lại chữ ấy. “Hành vi thế phạm” chính là ư nghĩa của
chữ Phương. “Thiện
đậu cơ nghi” (khéo hợp cơ nghi): Thiện
xảo phương tiện có thể khiến cho
người tiếp nhận đều sanh tâm hoan hỷ.
Đó là “thiện đậu
cơ nghi”, đó là Tiện. Có thể thấy ư nghĩa
được giải thích theo kiểu này c̣n sâu hơn ư
nghĩa trong Pháp Hoa Văn Cú, [nhưng cả hai sách]
đều nói đúng, chẳng hề nói sai!
“Hựu
Tịnh Ảnh Sớ vân” (lại nữa, Tịnh
Ảnh Sớ giảng), Tịnh Ảnh Sớ là chú
giải kinh Vô Lượng Thọ [của ngài Tịnh
Ảnh Huệ Viễn]. Sách ấy giảng: “Hóa hành thiện xảo, tùy
vật sở nghi, chủng chủng dị hiện, danh
quyền phương tiện” (hành vi giáo hóa khéo léo,
thuận theo căn cơ của chúng sanh mà hóa hiện thích
hợp, các thứ biến hiện lạ lùng th́ gọi là
Quyền Phương Tiện). Đây là giáo hóa chúng sanh vô
cùng hay khéo, vô cùng xảo diệu, chẳng có một pháp
nhất định nào. “Tùy
vật sở nghi”: Do [căn tánh của] mỗi
người [mà áp dụng phương pháp] khác biệt, do
mỗi sự mà khác biệt. Như trong quá khứ,
trưởng lăo Tế Công trong Phật môn là người
đời Tống, sống cùng thời đại với
Nhạc Phi, thật sự có vị ấy, mà cũng
thật sự có chuyện ấy, nhưng [những điều]
được viết trong tiểu thuyết chẳng đáng
tin. Trong Cao Tăng Truyện có [ghi chép truyện của
Ngài], tôi nhớ truyện kư về Ngài đặc biệt
phong phú, h́nh như có tới sáu quyển. Truyện kư
của người khác chỉ có một trang, hai trang, c̣n [truyện
kư của] Ngài tới sáu quyển. Trong Đại Tạng
Kinh có sách ấy. Đó là “chủng
chủng dị hiện” (các thứ hóa hiện lạ
lùng), tác dụng to lớn, chẳng có ngằn mé.
Người tầm thường chẳng thể làm
được những chuyện ấy, thật sự có
thần thông, những chuyện như vậy rất
nhiều. Nhất là trong thời cận đại cũng
phát hiện một trường hợp như vậy. Trong
thời kỳ Kháng Chiến, vị được gọi
là Kim Sơn Hoạt Phật (Phật sống chùa Kim Sơn)
chính là một vị xuất gia tại chùa Kim Sơn ở
Nam Kinh. Sư có pháp hiệu là Diệu Thiện, nhưng
rất nhiều người trong thế gian chẳng
biết pháp danh của Ngài, đều gọi Ngài là
Hoạt Phật, gọi Ngài là Kim Sơn Hoạt Phật. Hành
trạng trong một đời của vị pháp sư ấy
chẳng khác Tế Công đời Tống cho mấy, cũng
là đi một đôi dép cỏ[1]
rách nát, mặc một cái áo dài, nói chung bên trong là một cái
quần đùi, cả năm bốn mùa đều là dáng vẻ
như thế. Trước nay chưa hề giặt
quần áo, y phục rách nát, rất bẩn thỉu nhưng
Ngài trọn chẳng bận tâm. Suốt đời
chẳng tắm gội, cổ áo đóng hờm đen x́, nhưng
quư vị ngửi thấy có hương sen thơm ngát.
Lại c̣n có thể chữa bệnh! Thân thể quư vị
có chỗ nào chẳng thoải mái, quư vị ngửi mùi
ấy sẽ hết bệnh! Hết sức lạ lùng! Lăo
nhân gia viên tịch tại Miến Điện, Ngài sang
Miến Điện giáo hóa chúng sanh, qua đời bên đó.
Tín đồ nơi ấy vô cùng cung kính Ngài, nhất
định bắt Ngài đi tắm rửa, bắt Ngài
gột rửa trong khi mưa dầm, Ngài văng sanh trong khi
đang tắm, đứng ở dưới nước
văng sanh, người thật, chuyện thật!
Tại Đài Loan có hai người
viết truyện kư về Ngài: Cuốn Sự Tích Kim Sơn
Hoạt Phật do pháp sư Chử Vân viết, c̣n cuốn
kia do pháp sư Lạc Quan viết. Pháp sư Lạc Quan
từng ở chung với Ngài suốt bốn tháng. Cụ
Lạc Quan có cùng bối phận (vai vế) với chúng tôi,
Sư từng bảo tôi: “Vị ấy (Kim Sơn Hoạt
Phật) thật sự có thần thông. Trong tâm chúng tôi
nghĩ ǵ Ngài đều biết, trong lúc nói
giỡn Ngài nói ra hết. Chúng tôi khởi tâm động niệm
bất cứ điều ǵ, đều chẳng có cách nào
giấu Ngài, Ngài đều biết cả. Ngài có Tha Tâm Thông.
Tối thiểu là Ngài có Thiên Nhăn Thông, Thiên Nhĩ Thông, và Tha
Tâm Thông. Tối thiểu là Ngài có những năng lực ấy!”
Có Thần Túc Thông hay không? Chẳng có chứng cớ rơ
rệt, nhưng dường như là có. Mọi
người đang tụ tập chuyện gẫu,
nhắc tới Kim Sơn Hoạt Phật, chưa nói xong,
Ngài đă bước vào! Thường có hiện
tượng ấy, làm thế nào lại xảo hợp
như thế được? Đó là “chủng chủng dị hiện”, là Quyền Phương
Tiện. Nói chung, cảnh giới ấy phải từ A La
Hán trở lên th́ mới được. A La Hán có tứ quả,
từ Sơ Quả đă có [thần thông], Sơ Quả là
Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn đoạn tám mươi tám
phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, khôi phục hai
thứ trong sáu thứ bản năng (năng lực
vốn sẵn có), tức là Thiên Nhăn và Thiên Nhĩ. Người
b́nh thường chúng ta chẳng thấy nhưng Ngài
thấy, người b́nh thường chúng ta nghe không
thấu, nhưng Ngài nghe thấu, Ngài có năng lực
ấy. Chúng ta giảng kinh trên tầng lầu này, Ngài nh́n
thấy những tầng dưới, Ngài biết rơ
hoạt động của người trong mỗi
tầng, có thể trông thấy chẳng bị chướng
ngại! Nếu chứng Nhị Quả sẽ có năng
lực càng lớn hơn nữa. Nhị Quả có Tha Tâm
Thông, có Túc Mạng Thông, trong tâm người khác nghĩ ǵ,
vị ấy đều biết. Đến Tam Quả bèn
có Thần Túc Thông, có thể biến hóa, phân thân, các bậc thánh
giả Tiểu Thừa có thể thị hiện. Trong Đại
Thừa, như kinh Hoa Nghiêm của Viên Giáo đă nói, Sơ
Tín vị Bồ Tát có năng lực Lục Thông hoàn toàn
giống như Tu Đà Hoàn. Đệ Thất Tín Bồ Tát
đoạn phiền năo, nay chúng ta nói theo cấp bậc th́
Ngài tương đương A La Hán, tức A La Hán trong Tiểu
Thừa. Bát Tín tương đương Bích Chi Phật.
Cửu Tín là Bồ Tát, tức địa vị Bồ Tát
trong mười pháp giới. Thập Tín là địa
vị Phật trong mười pháp giới. Tùy theo
địa vị, thần thông biến hóa cũng [sai khác]
rất lớn. Lũ phàm nhân chúng ta chẳng thể làm
được những điều ấy, nhưng các Ngài
có thể làm được!
“Tổng
thượng kinh luận” [nghĩa là] chúng ta tổng hợp
những điều kinh luận vừa giảng trên
đây, “cố tri dĩ thiện
xảo ổn tiện chi pháp”, [nghĩa là] dùng những phương
pháp khéo léo, ổn thỏa, thích đáng, thuận tiện, “diệu khế chúng sanh căn
cơ” (khéo léo khế hợp căn cơ của chúng
sanh), “diệu” có nghĩa là
thiện. Vị ấy sử dụng phương pháp rất
xảo diệu, hết sức tốt đẹp, khiến
cho chúng sanh sau khi tiếp xúc đều sanh tâm hoan hỷ, giác
ngộ, có thể phá mê giác ngộ, sanh tâm hoan hỷ. “Đạo hướng cứu
cánh chi quả giác” (dẫn dắt hướng
đến quả giác rốt ráo), quả giác rốt ráo
chính là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề
như đă nói trong phần trước, đó là quả
giác rốt ráo. V́ vậy, từ chỗ này, chúng ta hiểu
rơ Phật pháp là ǵ? Ngàn kinh muôn luận, vô lượng pháp
môn, quyết định đều nhằm một mục
tiêu là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đấy là
Phật pháp. Nếu mục tiêu là Chánh Giác, đó là Tiểu
Thừa A La Hán; nếu mục tiêu là Chánh Đẳng Chánh
Giác, đấy là Bồ Tát, là Đại Thừa. Nếu mục
tiêu là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là pháp
Nhất Thừa, là Phật quả rốt ráo viên măn. Chúng ta
phải hiểu rơ, minh bạch chuyện này, kinh Vô
Lượng Thọ đi theo đường hướng
nào? Nói thẳng thừng là dạy chúng ta thành tựu Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong hết thảy các
kinh, nó thuộc loại kinh Nhất Thừa. Kinh Nhất
Thừa chẳng có mấy bộ! Tại Trung Quốc,
trừ bộ kinh này ra, Hoa Nghiêm là Nhất Thừa, Pháp Hoa là
Nhất Thừa. Phạm Vơng tuy là Nhất Thừa, nhưng
chẳng được dịch hoàn toàn sang tiếng Hán,
truyền đến Trung Quốc chỉ có Bồ Tát Tâm Địa
Giới Phẩm, chỉ có một phẩm. Do mục tiêu
của kinh này là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nên
trong pháp môn này, ở đây, đức Phật dạy chúng
ta niệm Phật văng sanh bất thoái thành Phật, “danh vi hành quyền hoặc hành phương
tiện” (gọi là “hành quyền” hoặc “hành
phương tiện”), tổng kết ư nghĩa ấy,
giải thích viên măn từ ngữ “hành quyền phương tiện”. Tiếp đó là “nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ
ngạn. Nhập giả, Gia Tường Sớ thích vi:
Giải khế tông nguyên” (“Nhập Phật pháp tạng,
rốt ráo đạt đến bờ kia”. Gia Tường
Sớ giải thích “nhập” là “thông hiểu, khế
nhập tông nguyên”). “Tông nguyên”
là ǵ? Tông (宗) là chủ yếu, trọng yếu, Nguyên (源) là căn nguyên (cội nguồn). Chúng ta
hiểu Tông Nguyên là tự tánh, hết thảy các pháp chẳng
ĺa tự tánh. Trong tự tánh, đức Thế Tôn đă
quy nạp vô lượng vô tận công đức thành ba
loại lớn, thứ nhất là trí huệ, thứ hai là đức
năng, thứ ba là tướng hảo. Trí huệ là thông
đạt, hiểu rơ. Hết thảy các pháp thế gian hay
xuất thế gian đúng là không ǵ chẳng biết. Đức
năng là thần thông, thiện xảo phương
tiện, không ǵ chẳng thể. Trong tướng hảo có
vật chất và tinh thần, tướng hảo viên măn.
Trong cơi Thật Báo, đức Thế Tôn đă giới
thiệu với chúng ta: “Thân có
vô lượng tướng, mỗi tướng có vô
lượng hảo”. Không giống như Thích Ca Mâu Ni
Phật xuất hiện trong thế giới này, thị hiện
thân tướng giống như chúng ta, ba mươi hai
tướng, tám mươi thứ hảo, kinh
thường gọi thân ấy là Liệt Ứng Thân (thân
ứng hiện kém cỏi). Thị hiện trong lục
đạo nhất định phải thị hiện thân
giống như chúng sanh. Nếu thị hiện sai biệt
quá lớn, kẻ b́nh phàm chẳng dám tin tưởng.
Phải thị hiện thân tốt đẹp hơn
một chút th́ mọi người mới có thể tin
tưởng. Trên cơi trời, đức Phật thị
hiện thân trời, trong nhân gian, Ngài thị hiện thân
người, trong đường súc sanh, Ngài thị
hiện thân súc sanh. Nếu muốn độ chúng sanh trong
một loài nào, đầu tiên là phải hiện thân giống
như họ. Nếu muốn độ kiến, Ngài
cũng hiện thân kiến. Quư vị chẳng hiện thân
ấy th́ làm sao có thể ở cùng chỗ với họ?
Ở cùng một chỗ với họ th́ mới có cách
dạy họ; do vậy, thị hiện thân đồng
loại.
“Giải
khế tông nguyên” là nói đến Nhập trong “nhập Phật pháp tạng”,
chúng ta đă hiểu rơ, lư giải [Nhập] là tương
ứng với Tánh Đức. Nói cách khác, tương
ứng với trí huệ chân thật, chẳng phải là tương
ứng với kiến thức và học thuật thông
thường. Con người hiện thời nói
đến học thuật và tri thức, chẳng nói
tới trí huệ. Nói tới tri thức th́ tương
ứng với tri thức sẽ chẳng được,
đó là pháp thế gian, chẳng phải là pháp xuất
thế gian. V́ sao phải nói theo cách như vậy? Bốn
chữ ấy (giải khế tông nguyên) có ư nghĩa rất
sâu, quả thật là trong thời cận đại, có
lắm kẻ đă coi kinh điển nhà Phật như
một thứ học thuật để nghiên cứu, nên
bị biến chất, biến thành tri thức, [trở
thành] kiến thức Phật giáo. Ở những chỗ nào?
Trong đại học! Rất nhiều trường đại
học dùng kinh điển để giảng dạy.
Tại những trường nổi tiếng nhất Âu
Châu như đại học Ngưu Tân (Oxford), đại
học Kiếm Kiều (Cambridge), đại học Luân
Đôn (London) đều có khoa Hán Học. Sinh viên
đại học, sinh viên chương tŕnh Cao Học, sinh
viên theo học chương tŕnh Tiến Sĩ của ngành
Hán Học dùng kinh Phật để viết luận án. Họ
có tương ứng hay không? Họ tương ứng,
nhưng chẳng phải là “giải
khế tông nguyên”! Chẳng phải vậy! Bởi lẽ,
những ǵ họ học được đều là
kiến thức về Phật giáo, chẳng phải là trí
huệ trong Phật pháp. Khi tôi đến viếng thăm,
cũng có giảng cho họ hai buổi, nhắc nhở họ
học Phật, phải học theo đường lối
của tổ sư đại đức th́ mới thật
sự được thọ dụng. Đi theo con
đường học thuật cũng hữu dụng,
giống như có thể đạt được học
vị Tiến Sĩ, tương lai làm giáo sư khoa
Triết Học hoặc Phật Học, hoặc làm một
nhà Hán Học, có thể đạt được
điều ấy, nhưng mong chứng quả Tu Đà Hoàn
sẽ chẳng có phần, mong được văng sanh,
cũng chẳng có phần, [bởi lẽ], Phật giáo theo
kiểu đó là học thuật. Phật giáo của Thích Ca
Mâu Ni Phật là giáo dục Phật giáo, phải hiểu
điều này, nó chẳng phải là học thuật. Thời
đầu Dân Quốc, Âu Dương đại sư
đă nói rất hay, Phật pháp không phải là triết
học hay tôn giáo, mà là nhu cầu tất yếu của con
người hiện thời. V́ sao? Nó thật sự có
thể giải quyết vấn đề, giúp chúng ta hóa
giải xung đột, khôi phục sự an định,
ḥa b́nh cho xă hội. Phật pháp làm được những
điều ấy, giúp chúng ta thoát ly lục đạo luân
hồi, giúp chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc,
trong một đời chứng đắc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác rốt ráo viên măn, nó có thể
thực hiện được những điều
ấy. “Giải khế tông
nguyên” vô cùng quan trọng.
“Tịnh
Ảnh Sớ vân: Chứng hội vi Nhập. Khả
kiến nhập giả, vi khế hội chứng nhập
chi nghĩa” (Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Chứng
nhập, khế hội là Nhập”. Có thể thấy Nhập
có nghĩa là khế hội, chứng nhập”). Chữ “Hội” (會) có ư nghĩa rất sâu. Quư vị
đọc Ngữ Lục của Thiền Tông, thấy
thầy dạy tṛ, thường nói một câu Khẩu
Đầu Thiền nhiều nhất. Thầy hỏi tṛ: “Nhĩ hội ma?” (Ngươi
hiểu chưa?). Câu này có ư nghĩa sâu xa, Hội là ǵ? Khế
nhập là Hội, quư vị chẳng khế nhập sẽ
không hiểu! Khế nhập là “giải
khế tông nguyên” như đă nói trong đoạn
trước, quư vị thật sự thấu hiểu.
Chẳng phải là [hiểu] theo mặt văn tự, mà là
do văn tự, do ngôn thuyết, quư vị đang xem kinh hay
đang nghe giáo bèn khế nhập tự tánh, chúng ta
thường nói là “khai ngộ”. Xem kinh bèn khai ngộ, nghe giảng
bèn khai ngộ, đó là Nhập. Chẳng có ngộ,
chẳng thể coi là Nhập! Thật sự ngộ
nhập th́ mới là Nhập. Do vậy, Nhập có nghĩa
là “khế hội, chứng nhập”. “Diệc tức Pháp Hoa trung nhập Phật tri
kiến trung chi Nhập tự dă” (cũng chính là chữ
Nhập trong “nhập Phật tri kiến” của kinh Pháp
Hoa). “Nhập” là chứng, là
khế nhập. Phật tri Phật kiến là trí huệ Bát
Nhă trong tự tánh, trong Thiền Tông nói “đại triệt
đại ngộ, minh tâm kiến tánh” là nói đến
điều này, nói tới chuyện này. Trong Giáo Hạ nói “đại
khai viên giải” cũng nhằm nói về chuyện này.
Người niệm Phật chúng ta gọi điều này
là “Lư nhất tâm bất loạn”, nhất tâm bất
loạn bao gồm Sự nhất tâm bất loạn và Lư nhất
tâm bất loạn. Lư nhất tâm bất loạn là nhập Phật
tri kiến, có cùng cảnh giới với minh tâm kiến
tánh trong Thiền Tông, đồng dạng với
“đại khai viên giải” trong Giáo Hạ, tầng bậc
như nhau. Sự nhất tâm thuộc về giải
ngộ, chưa phải là chứng; do vậy, Sự
nhất tâm bất loạn sanh về thế giới Cực
Lạc sẽ sanh trong cơi Phương Tiện Hữu
Dư, giống như bốn thánh pháp giới trong thế
giới này. Nếu là Lư nhất tâm sẽ sanh trong cơi
Thật Báo Trang Nghiêm, khác hẳn, đă thành Phật
rồi. Do vậy, Sự nhất tâm vẫn là Bồ Tát,
chưa thuộc về địa vị Phật. Sự nhất
tâm cũng có ba bậc, chín phẩm, trung hạ phẩm là
địa vị A La Hán trong Tiểu Thừa, trung
thượng phẩm là Bồ Tát. Nh́n theo giáo lư, Tây
Phương Cực Lạc thế giới gồm bốn
cơi, ba bậc, chín phẩm, nhưng trên thực tế, chúng
ta phải liễu giải: Hoàn cảnh tu học trong
thế giới ấy vô cùng đặc biệt, thù
thắng, kẻ b́nh phàm chúng ta chẳng có cách nào tưởng
tượng. Đó là ǵ? Hoàn toàn đắc lực cậy vào
bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia
tŕ; do vậy, họ đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát.
Đây cũng là lư do v́ sao nói Tịnh Tông là pháp khó tin, nguyên
nhân ở chỗ này, đúng là pháp khó tin!
“Nhập
Phật pháp tạng”, tiếp
theo đó, [cụ Hoàng] giải thích [từ ngữ] “Phật pháp tạng”. “Phật pháp tạng giả, Gia
Tường Sớ vân: Danh lư vi Tạng” (“Phật pháp
tạng”: Gia Tường Sớ giảng: “Lư
được gọi là Tạng”). Trước hết,
giải thích ư nghĩa chữ Tạng. “Cái vị Phật pháp tạng vi Pháp Tánh chi Lư Thể.
Pháp Tánh hàm tàng vô lượng chi Tánh Đức, cố danh Phật
pháp tạng” (ư nói Phật pháp tạng là Lư Thể
của Pháp Tánh. Pháp Tánh chứa đựng vô lượng Tánh
Đức, nên gọi là Phật pháp tạng). Trên thực
tế, “nhập Phật pháp
tạng” là minh tâm kiến tánh, minh tâm kiến tánh là nhập
Phật pháp tạng. Chúng ta niệm Phật, tới ngày nào
đó niệm đến mức Lư nhất tâm bất
loạn chính là nhập Phật pháp tạng, minh tâm kiến tánh.
Do vậy, đây cũng là một cách giải thích rất
hay, rất rơ ràng, “danh Lư vi
Tạng” (gọi Lư là Tạng), Tạng (藏) có nghĩa là hàm chứa. Phật pháp
tạng là Pháp Tánh Lư Thể, dùng chữ Tạng [để diễn
tả] ư nghĩa “chứa đựng”, giống như
một kho tài liệu, dùng ngay chuyện này để tỷ
dụ. Pháp Tánh là thật, thật sự chứa
đựng vô lượng Tánh Đức, đúng là vô
lượng. Tự tánh của mỗi cá nhân đều
tương đồng, trong Triết Học gọi nó là
bản thể của vạn hữu trong vũ trụ. Nó có
thể sanh, có thể hiện. A Lại Da có thể
biến, A Lại Da cũng chẳng ĺa khỏi Phật pháp
tạng. Tách rời Phật pháp tạng bèn chẳng có A
Lại Da. Phật pháp tạng giống như nước,
A Lại Da giống như sóng, ĺa nước lấy
đâu ra sóng? Bởi lẽ, bản thể của sóng là
nước, vạn sự vạn vật trong khắp pháp
giới hư không giới có cùng một bản thể. Do
vậy, đối với kinh Phật, tổ sư đại
đức thường dạy chúng ta, trọn khắp pháp
giới hư không giới và chúng ta có cùng một Thể.
Quư vị thấy chúng ta thường nghe kinh nói: “Sanh Phật bất nhị”
(chúng sanh và Phật chẳng hai). “Sanh”
là chúng sanh, “Phật” là
chư Phật Như Lai, đặt chúng sanh lên đầu,
nói đến Phật ở sau; đó là ǵ? Phật tôn
trọng chúng sanh, tôn kính chúng sanh. V́ sao? Chúng sanh là Phật
chưa giác ngộ, Phật là chúng sanh đă giác ngộ.
Vị Phật chưa giác ngộ là một vị Phật
hồ đồ, chẳng biết tôn trọng người
khác; c̣n chúng sanh đă giác ngộ, đối với bất
cứ điều ǵ cũng đều tôn trọng. Chúng
sanh đă giác ngộ bèn là Phật. Lại c̣n nói: “Tự tha bất nhị”,
Tự là chính ḿnh, Tha là ǵ? Tha th́ trên là chư Phật,
dưới đến chúng sanh trong địa ngục,
đều là một, chẳng hai! Lăo Tử cũng nói
kiểu ấy: “Thiên địa
dữ ngă đồng căn, vạn vật dữ ngă
nhất thể” (trời đất và ta có cùng gốc,
vạn vật và ta cùng một Thể), có ư nghĩa hoàn toàn
giống như lời đức Phật đă nói.
Hiện thời, chúng tôi rất
muốn nghe [lời nhận định của] các nhà
Vật Lư Học Lượng Tử trong hiện
đại, nghe họ [tŕnh bày] những nghiên cứu, phát
hiện của họ, để cho họ chứng minh
những điều được nói trong Phật pháp là
thật, chẳng phải là giả. V́ sao người phải
yêu thương người? Cùng một Thể! Chúng ta có cùng
một thân thể, v́ sao ta phải yêu thương ngón tay
này? V́ sao ta phải yêu thương sợi lông này? Nó và ta có
cùng một Thể, đạo lư là như thế đó. Pháp
thế gian hay xuất thế gian chẳng có giới
hạn, sai biệt ở chỗ nào? Mê hay ngộ, mê bèn
gọi là pháp thế gian, giác ngộ bèn gọi là pháp xuất
thế gian. Xuất thế gian gọi là Phật pháp, đă
giác ngộ là Phật pháp, chưa giác ngộ gọi là chúng sanh
pháp, chúng là một, chẳng hai! Do vậy, đúng là trong
Pháp Tánh, Pháp Tánh là tự tánh, chứa đựng vô
lượng Tánh Đức. Người giác ngộ
muốn giúp chúng ta giác ngộ vô lượng Tánh Đức,
giúp chúng ta giác ngộ lại chẳng phải là chuyện đơn
giản, v́ sao? Chưa chắc chúng ta đă tin tưởng
họ, chẳng có tín tâm đối với họ, chẳng
tôn trọng họ, cho nên chẳng dễ ǵ dạy
được! Nhưng đối với khó khăn
trước mắt, chỉ cần lấy ra đôi chút Tánh
Đức bèn có thể giải quyết. Cội rễ
của Tánh Đức là ǵ? Người Trung Quốc nói
tới Hiếu. Ngũ Luân được bắt
đầu bằng câu “phụ
tử hữu thân” (cha con có t́nh thân thiết), đó là cội
nguồn của Tánh Đức. Vô lượng vô biên Tánh
Đức thảy đều lưu lộ từ cội
nguồn ấy. Trong Phật pháp, [Hiếu] được
gọi là từ bi, trong nhiều tôn giáo, nó được
gọi là Ái. Ái và từ bi trong Phật pháp cũng như “phụ tử hữu thân”
trong Ngũ Luân của Trung Quốc có ư nghĩa hoàn toàn
giống nhau, chẳng kèm thêm bất cứ điều
kiện nào, nó là tâm yêu thương vô điều kiện!
Người Trung Quốc đă nêu bày Tánh Đức một
cách đơn giản bằng mười hai chữ.
Mười hai chữ ấy có thể giúp chúng ta sống rất
hạnh phúc, rất sung sướng suốt một
đời. Mười hai chữ ấy chính là “hiếu, đễ, trung, tín,
lễ, nghĩa, liêm, sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”, Tánh
Đức đấy! Có phải là mười hai chữ
ấy vô lượng vô biên? Đúng vậy. Chúng ta suy
nghĩ sẽ thấy mười điều trong Thập
Thiện, mười đại nguyện vương
cũng là mười điều. Khi Bồ Tát mở
rộng ra, chúng sẽ biến thành tám vạn bốn ngàn
tế hạnh. Mười hai chữ ấy của Trung
Quốc có phải là tám vạn bốn ngàn tế hạnh
trong Bồ Tát đạo hay không? Tôi tin là chúng đă bao trùm
chẳng sót, chúng chính là Tánh Đức.
Do vậy, ngày nay chúng ta vận
dụng Tánh Đức đôi chút như thế nào, áp
dụng đôi chút trong cuộc sống như thế nào?
Chúng ta chưa kiến tánh, nhưng những người
đă kiến tánh đều hiểu rơ, sẽ nêu bày tự
tánh. Nếu chúng ta chịu tin tưởng, chịu y giáo
phụng hành th́ cũng sẽ sử dụng
được, người chưa kiến tánh cũng sử
dụng được, phải nghe theo giáo huấn của
chư Phật, Bồ Tát và các vị đại thánh
đại hiền. V́ thế, chúng tôi thường nói: “Chúng
tôi học tập nhiều năm như thế mới thấu
hiểu, những thứ ấy chẳng phải do họ phát
minh, chẳng phải do họ sáng tạo, mà do tự tánh
lưu lộ”. Trong thời cổ, chúng ta có lư do để tin
tưởng Phật, Bồ Tát đă ứng hóa trên lănh
thổ Trung Quốc, nhưng con người thuở ấy
chẳng có căn tánh nhạy bén như tại Ấn
Độ, căn cơ độn hơn, nên các Ngài dùng
những phương pháp ấy để chỉ dạy chúng
ta, đó là Tánh Đức tự nhiên lưu lộ, chúng ta phải
tôn trọng. Người Ấn Độ căn cơ chín
muồi, nên [chư Phật] ứng hóa trong thế gian này,
đáng nên dùng thân Phật để đắc độ,
liền hiện thân Phật để giáo hóa, Phật
hiện thân Phật tại Ấn Độ. Tại Trung
Quốc th́ Phật hiện các thân như Khổng Tử,
Mạnh Tử, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, hiện thân làm những
vị ấy, làm các bậc thánh hiền. Đó là
phương tiện thiện xảo, đại dụng chẳng
có ngằn mé! Chúng ta học theo thánh hiền, học theo Phật,
Bồ Tát là học theo ai? Học theo Tánh Đức của
chính ḿnh, nhất định phải hiểu đạo lư
này! Những vị từng trải ấy đă triển
hiện Tánh Đức cho chúng ta thấy, những kinh
luận, sách vở thảy đều từ Tánh Đức
lưu lộ. Bởi thế, đại kinh đại
luận nói: “Phật pháp vô nhân
thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp mà
không có ai nói th́ dẫu là người có trí vẫn chẳng
thể hiểu). Kẻ thông minh tuyệt đỉnh trong
thế gian có thể thông hiểu ư nghĩa trong kinh Phật
hay chăng? Không thể hiểu! Do nguyên nhân nào? Kinh điển
lưu lộ từ tự tánh. Ai có thể hiểu?
Người càng gần với tự tánh sẽ càng có
thể lư giải. Gần với tự tánh là như
thế nào? Phải loại bỏ những thứ
tương phản tự tánh và những điều hư
vọng. Những ǵ là tương phản? Dùng cách nói
của Trung Quốc để luận định th́ bất
hiếu, bất đễ, bất trung, bất tín, vô
lễ, vô nghĩa, vô liêm, vô sỉ chính là những thứ
tương phản, mọi người hiểu rất rơ
những điều ấy. Chúng là ǵ vậy? Tập khí
phiền năo từ vô thỉ kiếp! Chúng ta có thể xa ĺa,
tẩy gột sạch sành sanh những tập khí ấy,
Tánh Đức của chúng ta bèn hiện tiền. Lại c̣n
không ngừng nâng cao hơn, chúng ta cũng có thể
đạt tới cảnh giới thánh hiền, lại nâng
cao hơn tới mức viên măn, đó là cảnh giới
Phật.
“Hựu
Pháp Tánh trung hàm nhiếp nhất thiết Phật pháp, cố
danh Phật pháp tạng” (lại nữa, trong Pháp Tánh
chứa đựng, thâu nhiếp hết thảy Phật
pháp, nên gọi là “Phật pháp tạng”). Nói theo Phật pháp
th́ đúng là như vậy, hết thảy Phật pháp
đều sanh từ tự tánh, hễ rời khỏi
tự tánh bèn chẳng có một pháp nào để
được. “Tự tánh
thanh tịnh viên minh thể” như sách Hoàn Nguyên Quán
đă nói chính là “Phật pháp tạng” đang
được nói ở đây. Xuất sanh vô tận,
trọn khắp hết thảy, hết thảy các pháp, hết
thảy Phật pháp đều do nó sanh ra. Hết thảy
phiền năo, nghiệp chướng, và tập khí cũng do
nó sanh ra. Chuyện này là như thế nào? Hễ giác ngộ
sẽ sanh ra hết thảy Phật pháp, đă mê bèn sanh ra hết
thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, xuất hiện những thứ ấy. Do
vậy, đối với hết thảy những thứ
phi pháp, phản diện ấy, chúng ta cũng chớ nên khi
dễ chúng, v́ sao? Thể của chúng là Thật, chỉ v́
mê nên mới biến thành nông nỗi ấy, nếu người
ấy giác ngộ sẽ khôi phục b́nh thường. Do
vậy, chư Phật, Bồ Tát cung kính chúng sanh trong
địa ngục, đối với muỗi, trùng,
kiến chẳng dám coi rẻ, do nguyên nhân nào? Quư vị nh́n
từ một phương diện khác, nếu họ giác
ngộ sẽ đều là Phật, họ vốn là Phật,
tuy đang mê, bổn tánh chẳng mê, phải biết điều
này! Bổn tánh vĩnh viễn thanh tịnh, chẳng bị
nhiễm ô, bất sanh, bất diệt. Mê là giả, hễ
mê bèn có sanh, có diệt. Mê bèn có nhơ, có tịnh, có
thiện, có ác. Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch
những chuyện ấy th́ trong hết thảy thế
gian, tức là hết thảy các thế gian trong mười
pháp giới, sẽ sanh khởi tâm b́nh đẳng, đối
với bất luận cảnh giới nào chúng ta
đều thấy như nhau. Đó là Phật tri Phật
kiến. Phật chẳng có tâm phân biệt, chẳng có tâm
chấp trước, chẳng khởi tâm động niệm;
Bồ Tát có khởi tâm động niệm, nhưng chẳng
có phân biệt, chấp trước. Sự học tập
của chúng ta phải trải qua những tầng lớp
này, nên gọi là Phật pháp tạng.
“Thị
cố nhập Phật pháp tạng, tức Pháp Hoa trung
thiện nhập Phật huệ, thông đạt
đại trí” (do vậy, nhập Phật pháp tạng
chính là “khéo nhập Phật huệ, thông đạt
đại trí” trong kinh Pháp Hoa), có ư nghĩa này. Dùng
phương tiện thiện xảo khế nhập Phật
huệ, “Phật huệ” là trí
huệ Bát Nhă vốn sẵn có trong tự tánh. “Thông đạt đại trí”:
Đại trí là khởi dụng, là Hậu Đắc Trí,
là phương tiện thiện xảo. “Hựu Chân Giải cứ tùng quả hướng
nhân nghĩa, thích vân” (Lại nữa, sách Chân Giải
dựa theo ư nghĩa từ quả hướng đến
nhân, nên giải thích như sau), giải thích ư nghĩa
ấy: “Như Lai nhất
thiết công đức bảo tạng, Phật quả công
đức dă. Thử chi công đức đại bảo hải,
thuyết ngôn Phật pháp tạng” (kho báu hết thảy
công đức của Như Lai chính là công đức nơi
Phật quả. Biển cả các thứ vật báu công
đức ấy được gọi là Phật pháp
tạng). “Tức thị
Phật sở đắc Nhất Thừa dă” (chính là
Nhất Thừa do Phật đă đắc). Chư Phật
Như Lai chứng đắc Nhất Thừa, Nhất
Thừa là Phật Thừa, chứng đắc Phật
quả rốt ráo viên măn. Do vậy, trong hết thảy các
kinh, có kinh Tiểu Thừa, có kinh Đại Thừa, có kinh
Nhất Thừa. Kinh Nhất Thừa có mấy bộ? Hoa
Nghiêm là kinh Nhất Thừa, Pháp Hoa là kinh Nhất Thừa, Vô
Lượng Thọ là kinh Nhất Thừa. Kho báu hết
thảy công đức của Như Lai được nói
trong kinh Nhất Thừa chính là Phật quả rốt ráo do
Bồ Tát tu hành chứng đắc, trong ấy có trọn
đủ các công đức, đó là “công đức đại bảo hải”. Hải
(biển) là tỷ dụ. Công đức đại bảo
hải lấy không cạn, dùng chẳng hết. V́ vậy,
nói đến phước báo th́ ai có phước báo
lớn nhất? Phước báo thế gian hay xuất
thế gian không ai có thể sánh bằng Phật, trí huệ
lẫn phước báo [của Phật] đều
đạt đến viên măn rốt ráo, nhưng phải
hiểu, Phật là tự tánh của chúng ta. Nếu chúng ta minh
tâm kiến tánh, bèn thành Phật, trí huệ và phước
báo của chúng ta không ai có thể sánh bằng. Đó là Phật
pháp tạng, đó là pháp Nhất Thừa do Phật sở
đắc, là trí huệ viên măn trong pháp Nhất Thừa. V́
lẽ đó, Phật pháp tạng chính là “trí huệ và đức tướng vốn sẵn
trọn đủ trong bổn tánh” như Thích Ca Mâu Ni
Phật đă nói trong kinh Hoa Nghiêm. Ngài nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của Như
Lai, nhưng do vọng tưởng, chấp trước, nên
chẳng thể chứng đắc”. Chúng ta có thể buông
vọng tưởng và chấp trước xuống sẽ
chứng đắc. Quư vị thấy phàm phu thành Phật, nói
theo lư luận là trong một sát-na, quư vị chịu buông xuống
th́ kinh giáo hoàn toàn thuộc về quư vị. Chỉ cần
quư vị buông xuống, chẳng cần phải đọc
nó, [bởi lẽ] chính ḿnh đă hoàn toàn trọn đủ,
hết thảy các pháp thế gian hay xuất thế gian
không ǵ chẳng biết, không ǵ chẳng thể. Chúng ta hiểu
rơ đạo lư này, hiểu chân tướng sự thật
này, cho nên mới thật sự làm! Biết lợi ích này
quá to lớn, không làm như vậy, chúng ta bị tổn thất
quá to, sống cuộc đời khổ
sở, nhọc nhằn dường ấy. Thành Phật
đắc đại tự tại, vui sướng lắm.
Quư vị phải biết [lăo cư sĩ] Hứa Triết
c̣n chẳng sánh bằng, không ai có thể sánh bằng. Hôm
nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học tới đây.
Tập
102
Chư vị pháp sư, chư
vị đồng học, xin mời ngồi xuống. Xin xem
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải, trang một
trăm mười tám, ḍng thứ năm từ dưới
đếm lên, đọc từ chỗ “Hựu Chân Giải”.
“Hựu
Chân Giải cứ tùng quả hướng nhân nghĩa, thích
vân: Như Lai nhất
thiết công đức bảo tạng, Phật quả công
đức dă. Thử chi công đức đại bảo
hải, thuyết ngôn Phật pháp tạng, tức thị
Phật sở đắc Nhất Thừa dă” (Lại
nữa, sách Chân Giải dựa theo ư nghĩa từ quả
hướng đến nhân, nên giải thích như sau: “Kho
báu hết thảy công đức của Như Lai chính là
công đức nơi Phật quả. Biển cả các
thứ vật báu công đức ấy được
gọi là Phật pháp tạng, chính là pháp Nhất Thừa do
Phật đă đạt được”). Đây là
đoạn văn trích từ sách Chân Giải. Người Trung
Quốc nói “chư Phật Như
Lai thả chiếc bè Từ”, cũng có nghĩa là các Ngài
đă thành Phật rồi, v́ độ chúng sanh mà lập phương
tiện, chẳng dùng thân Phật, v́ sao? Phật ở
địa vị thầy, học tṛ nhất định
phải tôn trọng thầy, đó là “tôn sư trọng đạo”. Nếu học tṛ
nghiệp chướng rất nặng, tập khí rất nhiều,
chẳng biết hiếu thuận cha mẹ, mà cũng
chẳng biết tôn kính sư trưởng, lúc đó,
Phật độ kẻ ấy như thế nào? Chắc
chắn Phật chẳng dùng đến thân phận
Phật, mà dùng thân phận Bồ Tát. Thân phận Bồ Tát
rất nhiều, như trong phẩm Phổ Môn đă giới
thiệu ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm
Bồ Tát, trừ thân Phật ra, những thân khác
đều là phương tiện thiện xảo. Nên dùng
thân ǵ để đắc độ, bèn hiện thân ấy,
chẳng có mảy may câu thúc nào! Đúng là “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức” nên
mới có thể lợi ích chúng sanh. Từ chỗ này
cũng khiến cho chúng ta thấu hiểu: Chư Phật,
Bồ Tát từ bi chân thật, xác thực là các Ngài chẳng
có phân biệt, chẳng có chấp trước, hoàn toàn
thuận theo tâm ưa muốn của chúng sanh, tùy thuận tập
khí phiền năo của chúng sanh. Do vậy, Phật, Bồ Tát
muốn độ súc sanh, nhất định hiện thân súc
sanh, muốn độ ngạ quỷ nhất định
hiện thân ngạ quỷ. Chẳng phải là thân đồng
loại sẽ chẳng dễ tiếp xúc; do vậy, Ngài nhất
định phải hiện thân đồng loại. Đó
là “từ quả hướng tới nhân”, dùng ư nghĩa này
để giải thích “Phật
pháp tạng”.
“Như
Lai nhất thiết công đức bảo tạng” là nói
về tự tánh. Tự tánh của chúng ta vốn trọn
đủ vô lượng vô biên công đức, “bảo tạng” là tỷ
dụ. Nếu người thế gian có được kho
báu (bảo tạng), sẽ có nhiều của cải, chẳng
hứng chịu nỗi khổ bần cùng, mang ư nghĩa này.
“Bảo” (寶:
của báu) có tác dụng, giúp chúng ta đạt
được lợi ích thù thắng, công đức
vốn trọn đủ trong tự tánh cũng mang ư
nghĩa này. Công đức trong tự tánh khai phát, đó là phước
huệ viên măn. Không chỉ là trí huệ viên măn, mà phước
báo cũng viên măn, cho nên gọi là “bảo tạng”. Câu kế tiếp là “Phật quả công đức dă”
(là công đức nơi Phật quả), Bồ Tát
chứng đạt quả vị rốt ráo, chứng
đắc Phật quả rốt ráo viên măn, trọn
đủ công đức nơi quả địa, các công
đức trong tự tánh đều khởi tác dụng
viên măn. “Thử chi công
đức đại bảo hải, thuyết ngôn Phật
pháp tạng” (biển cả các thứ báu công đức
ấy được gọi là Phật pháp tạng), công
đức nơi quả địa được gọi
là Phật pháp tạng. Phật pháp, kho báu Phật pháp, “tức thị Phật sở
đắc Nhất Thừa dă” (chính là Nhất Thừa do
Phật đạt được), Ngài chứng
đắc pháp Nhất Thừa, [đó là] Nhất Thừa
viên măn. Nhất Thừa là Phật Thừa, Đại
Thừa là Bồ Tát Thừa, Tiểu Thừa là Thanh Văn,
Duyên Giác, ở đây là nói đến pháp viên măn rốt ráo.
“Chân
Giải chi thuyết, hiển hội trung chư Bồ Tát giai
thị đại quyền thị hiện” (Thuyết
của sách Chân Giải đă chỉ rơ các Bồ Tát trong
hội đều là bậc đại quyền thị
hiện). Tác phẩm chú giải kinh Vô Lượng Thọ
của thiền sư Đạo Ẩn người
Nhật có tựa đề là [Vô Lượng Thọ Kinh] Chân
Giải. Qua lời giải thích trong câu này, Sư đă
chỉ rơ trong hội ấy của đức Thế Tôn
tại Linh Sơn thuở đó, các vị Bồ Tát tham
dự pháp hội số tới một vạn hai ngàn người
đều là bậc Đại Quyền Thị Hiện, đều
là chư Phật, Bồ Tát hiện đến, đều
là Pháp Thân đại sĩ thị hiện, [do vậy
gọi] là “tùng quả
hướng nhân” (từ quả hướng đến
nhân). Những vị ấy “dĩ
nhập Như Lai Nhất Thừa quả hải” (đă
nhập biển quả Nhất Thừa của Như Lai), Như
Lai là tự tánh. Tự tánh vốn tự trọn đủ
trí huệ và đức tướng, ở đây gọi là
“Như Lai Nhất Thừa
quả hải” đều được chứng
đắc rốt ráo viên măn. “Đản
bất xả nhân hạnh” (nhưng chẳng bỏ các
hạnh [đă hành] trong khi tu nhân), “nhân” (因) [ở đây] là chưa chứng quả, giống
như trong hiện thời chúng ta đều đang
thuộc nhân địa (đang tu nhân). Nhân địa:
Từ sơ phát tâm măi cho đến khi [chứng
đắc] Đẳng Giác đều là nhân, Diệu Giác
mới là quả vị. Chư Phật Như Lai tuy đă
ở địa vị Diệu Giác vẫn chẳng bỏ
nhân hạnh (hạnh trong khi tu nhân), đến giúp Thích Ca Mâu
Ni Phật, đến làm một đứa học tṛ tu
học ḥng nêu gương tốt đẹp, các Ngài làm
gương cho chúng ta, được gọi là Ảnh
Hưởng Chúng trong đại chúng. “Cố lai hội tán trợ Thích Tôn” (nên
đến pháp hội giúp đỡ đức Thích Ca), giúp
Thích Ca Mâu Ni Phật giáo hóa hết thảy chúng sanh,
đến như vậy đó! Chúng ta học “nhập Phật pháp tạng” tới
đây!
Tiếp đó là nói “cứu cánh bỉ ngạn”
(rốt ráo đạt đến bờ kia), “cứu cánh giả, chí cực chi
nghĩa” (Cứu cánh nghĩa là đạt tới cùng
cực). Đạt tới chỗ “đăng phong tạo cực”, [tức là]
chẳng c̣n có ǵ cao hơn được nữa, đă
đạt tới tuyệt đỉnh! “Bỉ ngạn” (彼岸) là trở về tự tánh, tự tánh là
bỉ ngạn. Minh tâm kiến tánh như Thiền Tông đă
nói chính là “bỉ ngạn”,
giáo pháp Đại Thừa thường gọi “minh tâm kiến tánh” là “vọng tận hoàn nguyên”
(hết vọng, trở về nguồn). Hoàn nguyên (還源) là bỉ ngạn, hoàn nguyên là trở
về tự tánh. Trong Tịnh Độ Tông, trở về
Thường Tịch Quang là “bỉ
ngạn”. “Trí Độ Luận vân” [nghĩa là] trong
Đại Trí Độ Luận có nói: “Ba La”, tiếng Phạn là Ba La, Tâm Kinh nói Ba La
Mật (Pāramitā), ở đây, tỉnh lược âm
Mật ở cuối, [Ba La] chính là Ba La Mật. “Tần ngôn bỉ ngạn” (tiếng
Hán gọi là “bờ kia”), khi ấy, Cưu Ma La Thập
đại sư ở Trung Quốc, địa
phương Ngài ở có tên gọi là Tần, cho nên [tiếng
Hán] được gọi là “Tần
ngôn”, [tức là ngôn ngữ của] nước Tần. Chỗ
ấy nay thuộc hành lang Hà Tây[2],
thuộc khu vực tỉnh Cam Túc, thuở ấy gọi là “Tần quốc”. Đây là nói
về tiếng Hán, Ba La Mật dịch sang tiếng Hán là
Bỉ Ngạn (bờ kia). “Hựu
vân” (lại nói), giải thích thêm: “Dĩ sanh tử vi thử ngạn, Niết Bàn vi bỉ
ngạn” (coi sanh tử là bờ này, coi Niết Bàn là
bờ kia). Sanh tử là lục đạo, lục
đạo luân hồi có Phần Đoạn sanh tử,
đó là bờ bên này. Niết Bàn là bờ bên kia, Niết Bàn
là bất sanh, bất diệt. Chứng đắc Niết
Bàn sẽ bất sanh, bất diệt.
Niết Bàn có rất nhiều ư
nghĩa, ở đây trích dẫn kinh Niết Bàn để
nói: “Niết Bàn Kinh vân: Bỉ
ngạn giả, dụ Như Lai dă” (Kinh Niết Bàn
dạy: “Bờ kia ví như Như Lai”). Như Lai là minh tâm
kiến tánh, đại triệt đại ngộ. Chúng ta
đọc kinh Hoa Nghiêm, sẽ thấy trong Viên Giáo, từ Sơ
Trụ Bồ Tát trở lên đều được
gọi là Như Lai. Các Ngài sáu căn tiếp xúc cảnh
giới sáu trần, chẳng khởi tâm, không động niệm,
chẳng phân biệt, không chấp trước, đó là
kiến tánh, nên được gọi là Như Lai. Do
vậy, đối với [danh xưng] Như Lai, bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ đều có thể gọi là Như Lai, địa vị
có cao hay thấp khác biệt, quả vị rốt ráo là địa
vị Diệu Giác. Ở đây, vận dụng cả hai ư
nghĩa ấy đều hợp lư. “Thị dĩ Tịnh Ảnh sư thích cứu cánh Niết
Bàn” (do vậy, ngài Tịnh Ảnh giải thích từ
ngữ “Niết Bàn rốt ráo”), Ngài đă nói mấy câu
như sau: “Chương quả
tất cánh, Niết Bàn bỉ ngạn, đáo danh Cứu Cánh”
(Nêu rơ quả rốt ráo, Niết Bàn là bờ kia, đạt
đến [quả vị ấy] sẽ gọi là “rốt
ráo”). “Chương” (彰) là tỏ rơ, Bồ Tát tu chứng quả
vị đă đạt đến rốt ráo viên măn rồi,
nên nói là “tất cánh”, quả
vị tu hành đạt tới địa vị “tất cánh” (畢竟). “Tất”
(畢) là nói chúng
ta đă tốt nghiệp, đă hoàn tất, đă học
xong tất cả các khóa học rồi, Cánh (竟) cũng có ư nghĩa “viên măn”. Đă
đạt đến bờ kia Niết Bàn, đó là “cứu cánh” (究竟). Ư nghĩa này được nói theo
địa vị Diệu Giác, nếu mở rộng ra,
cũng có thể nói bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ đều thật sự tu
chứng bờ kia rốt ráo. Tiếp đó, cụ Hoàng ghi
thêm lời tiểu chú: “Sớ
vị chương minh dĩ đắc chí cực chi giác
quả, đáo đạt Niết Bàn bỉ ngạn, danh vi
cứu cánh” (Lời Sớ có ư giảng rơ: Đă
đạt đến địa giác quả tột
bậc, đạt đến bờ kia Niết Bàn, nên
gọi là “rốt ráo”). Đây là bổ sung ư nghĩa,
tức là bốn mươi mốt địa vị Pháp
Thân đại sĩ đều đạt tới rốt
ráo viên măn, chứng đắc quả vị cao nhất là
địa vị Diệu Giác, đó là “cực chi giác quả” (quả giác tột bậc),
tức là địa vị Diệu Giác, đều là Phật
quả viên măn. “Án Chân Giải
ư, tắc vi chứng nhập Phật chi Nhất Thừa
đại công đức bảo hải, khế Phật
sở đắc Niết Bàn” (Xét theo ư của sách Chân
Giải th́ [cứu cánh bỉ ngạn] là chứng nhập
biển báu đại công đức Nhất Thừa,
khế hợp Niết Bàn do Phật đă chứng
đắc). Hai vị Tịnh Ảnh và pháp sư
Đạo Ẩn nói đến cùng một chuyện, cùng
một cảnh giới.
“Thị
chư đại sĩ, viên chứng quả đức dĩ,
tùng quả hướng nhân, tuân Phổ Hiền đức,
phổ hiện thập phương, lai pháp hội trung,
đồng hoằng tịnh pháp” (Các vị đại
sĩ ấy đă chứng trọn vẹn quả
đức, bèn từ quả hướng đến nhân,
tuân theo phẩm đức Phổ Hiền, hiện khắp
mười phương, đến trong pháp hội [Vô
Lượng Thọ] để cùng hoằng dương
tịnh pháp). Đây là nói rơ những vị đại
sĩ từ mười phương đến tham dự
pháp hội, dùng thân phận Bồ Tát để đến
nơi đây; nhưng các vị Bồ Tát đó đều
đă thành Phật, từ quả hướng đến
nhân, người Hoa nói là “thả
chiếc bè Từ”, vẫn tuân hành phẩm đức Phổ
Hiền, hiện thân trong khắp mười phương. Có
ư nghĩa ấy, dụng ư ở chỗ này: “Tuân Phổ Hiền đức, phổ hiện thập
phương”. Từ chỗ này, chúng ta thấu hiểu
phẩm đức của ngài Phổ Hiền chẳng
thể nghĩ bàn! “Phổ
hiện thập phương” chính là thể hiện
nguyện cuối cùng trong mười nguyện Phổ
Hiền, tức là nguyện “phổ
giai hồi hướng”. Dùng ǵ để hồi
hướng? Phải dùng thành quả tu hành của chính ḿnh,
dùng vô tận phương tiện thiện xảo
để giúp hết thảy chúng sanh trong mười
phương thế giới giác ngộ, viên thành Phật
đạo, đó là “chân hồi hướng”. Hồi
hướng không phải là nói suông, mà phải dùng công
đức chân thật, các Ngài thể hiện ư nghĩa này!
Do vậy, các Ngài đến pháp hội, “đồng hoằng tịnh pháp” (cùng hoằng
dương tịnh pháp), “tịnh
pháp” là Tịnh Độ Tông, tức là pháp môn Tịnh
Độ Tông, cùng với Thích Ca Mâu Ni Phật chung sức
hoằng dương pháp môn này.
Tiếp đó [trích dẫn]
lời cư sĩ Bành Tế Thanh: “Hành quyền phương tiện, nhập Phật pháp
tạng, cứu cánh bỉ ngạn” (Hành phương
tiện quyền biến, nhập Phật pháp tạng,
đạt đến bờ kia rốt ráo). Hành quyền
phương tiện ngay trong cuộc sống hằng ngày, từ
sáng đến tối khởi tâm động niệm, sinh
sống, làm việc, đăi người, tiếp vật
đều phải thị hiện sống động. Thị
hiện ǵ vậy? Thị hiện nhập Phật pháp
tạng, đạt đến bờ kia rốt ráo. Ở
đây cũng phải giải thích đơn giản
một chút, nhập Phật pháp tạng là trong cuộc
sống hằng ngày sẽ giống như Phật. Chúng ta
phải thấu hiểu Thích Ca Mâu Ni Phật từ sáng
đến tối sống như thế nào th́ quư vị
mới có thể học theo. Suốt đời, Thích Ca Phật
chỉ làm một chuyện, trừ chuyện ấy ra,
chuyện ǵ cũng chẳng có. Chuyện ấy là giáo hóa
chúng sanh, [chỉ có] một chuyện ấy. Vậy th́ chúng
ta hiểu, ở nơi đây, “hành
quyền phương tiện” [chính là vận dụng] phương
tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sanh. Đó là độ
thoát hết thảy. Giáo hóa chúng sanh nhằm mục tiêu nào? Phải
biết: Giúp hết thảy chúng sanh phá mê khai ngộ th́ công
lao giáo hóa to lớn đă hoàn thành. Do vậy, đức Thế
Tôn đă thật sự thực hiện viên măn câu “thân hành ngôn giáo” như cổ
thánh tiên hiền Trung Quốc đă nói. Thân biểu hiện bằng
ǵ? Giới luật, [kinh điển] ghi lại ngôn
hạnh, cử chỉ của đức Thế Tôn, đó
là giới luật. Thực hiện viên măn, bắt đầu
từ Thập Thiện Nghiệp Đạo cho đến Bồ
Tát đại giới, [những điều ấy] đều
được biểu hiện trong cuộc sống
hằng ngày, đó là “thân hành”. Về kinh điển, thuở
ấy, đức Thế Tôn giáo hóa hết thảy
đại chúng, do căn tánh của hết thảy
đại chúng chẳng giống nhau, có người căn
tánh thượng thượng thừa, đức Phật giảng
cho họ pháp Nhất Thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa. Có
người là căn tánh Đại Thừa, đức
Phật giảng cho họ những kinh Đại Thừa
như Bát Nhă, Phương Đẳng. Có kẻ căn tánh Tiểu
Thừa, đức Phật giảng cho họ Tứ A Hàm.
C̣n có kẻ căn tánh nhân thiên, ngay cả [các pháp] Thanh
Văn, Duyên Giác họ đều chẳng màng, căn tánh
của họ là nhân thiên. Hiện thời toàn thể chúng ta
toàn là hạng căn tánh nhân thiên, v́ sao? Sơ Quả Tu
Đà Hoàn của Tiểu Thừa phải đoạn tám
mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, chúng
ta chẳng làm được, đúng không? Chẳng
giả! V́ thế, bản thân chúng ta phải biết chính
ḿnh thuộc căn tánh ǵ, có thể học được
phần nào trong sự giáo huấn suốt cả một
đời Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng thể vượt
quá phận được!
Kinh
Thập Thiện Nghiệp Đạo là bộ kinh đầu
tiên [trên con đường tu học], là kinh điển
nhập môn, là pháp nhân thiên, chư vị phải biết
điều này. Quư vị thấy điều thứ
nhất trong Tịnh nghiệp tam phước là pháp nhân
thiên, chưa nhập môn. “Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư
trưởng, từ tâm chẳng giết, tu mười
thiện nghiệp”. Hạng người nào vậy?
Chẳng phải là Bồ Tát, cũng chẳng phải là La
Hán, ngay cả Tu Đà Hoàn cũng chưa đạt
tới. Đây là pháp phải học của chư thiên trong
Dục Giới và con người trong nhân gian. Người
học tốt đẹp [pháp này] th́ mới có thể học
Phật. Điều kiện học Phật là học làm
người tốt đẹp. Vừa mở kinh bổn
ra, [ta thấy] đức Phật thường gọi “thiện nam tử, thiện
nữ nhân”, chúng ta thật sự làm được
chữ Thiện ấy. “Thiện” ấy chính là Thập
Thiện Nghiệp Đạo. Thật sự làm
được Thập Thiện Nghiệp Đạo th́ quư
vị mới có thể nhập Phật môn. Nhập Phật
môn đầu tiên là tiếp nhận Tam Quy, Ngũ Giới, vậy
th́ nay chúng ta cũng thọ Tam Quy và Ngũ Giới, c̣n có
rất nhiều đồng tu thọ Bồ Tát Giới, có
thật hay không? Trong tâm chúng ta phải hiểu rơ: Chẳng
thật! V́ sao? Chẳng làm được! Thiên Thai
đại sư nói Lục Tức, chúng ta là Danh Tự Tức
Phật, hữu danh vô thực, mang tiếng là đă thọ
Tam Quy, nhưng chẳng có thực chất Tam Quy, toàn là
giả trất! Chớ nên không biết điều này!
Đă là giả, v́ sao vẫn phải thọ? Tổ sư
đại đức dạy: Tuy giả vẫn nên thọ,
v́ sau khi đă thọ [những giới ấy, trong tâm ta sẽ]
thường ghi nhớ “ta đă quy y Tam Bảo, ta đă
thọ Ngũ Giới, phải nghiêm túc học tập”, nó
thường cảnh tỉnh quư vị. Chẳng thọ,
quư vị sẽ chẳng có khái niệm ấy. Sau khi đă
thọ, thường được nhắc nhở, do có
lợi ích ấy nên thọ giới tốt hơn là không
thọ! Nhưng đă thọ th́ ngàn muôn phần
đừng nghĩ ta đă là đệ tử Tam Bảo,
ta đă thọ Tam Quy, Ngũ Giới! Đấy là đại
vọng ngữ, có tội lỗi, [là v́] quư vị chưa
làm được! Sau khi đă thọ phải nghiêm túc,
nỗ lực thực hiện, nhất định phải
làm được th́ mới là tốt đẹp. Bởi
lẽ, Phật pháp trọng thực chất, chẳng
trọng h́nh thức.
Lúc tôi mới học Phật, được
quen biết Chương Gia đại sư, c̣n chưa quy
y. Tôi học với Ngài ba năm, h́nh như tới năm
thứ ba mới quy y, hai năm đầu chẳng quy y. Về
sau có rất nhiều người bảo: “Anh thường
ở cùng một chỗ với lăo nhân gia, có thể nào
chẳng quy y?” Gần như là không thể nào chấp nhận,
tôi bèn đối trước đại sư quy y, thọ
Tam Quy. Đại sư vô cùng từ bi, tuy tôi chưa quy y,
Ngài vẫn bằng ḷng nhiệt thành giáo huấn, mỗi tuần
dành cho tôi hai giờ, rất khó có! Tuy chúng tôi chưa quy y
nơi h́nh thức, nhưng xét đến thực chất th́
đă là thật sự quy y, v́ nghe lời! Thầy dạy
ra sao, chúng tôi đều có thể tiếp nhận,
đều chịu y giáo phụng hành. Đó là thật
sự quy y, tuy trên h́nh thức chẳng có, nhưng thật
sự quy y th́ có. Đó cũng gọi là “hành quyền phương tiện, nhập Phật pháp
tạng”. Nhất định phải nhập, nhất
định phải học theo Phật. Đức Phật
dạy chúng ta hai câu, phải vĩnh viễn ghi nhớ, phải
vĩnh viễn thực hiện: “Lấy
giới làm thầy, lấy khổ làm thầy”, chẳng
sợ chịu khổ, chẳng có ǵ quan trọng hơn điều
này! Có thể chịu khổ, sẽ chẳng bị dao
động trong hết thảy cảnh giới, chẳng
bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển. Phàm những
kẻ học Phật rốt cuộc bị thất
bại, đọa lạc, là do bị hoàn cảnh xoay
chuyển. Nói thực ra là chẳng thể chịu khổ, không
chống được sự dụ dỗ, mê hoặc
của cảnh giới, tiếng tăm, lợi
dưỡng bên ngoài nên mới bị thất bại.
Bởi thế, hai điều giáo huấn ấy của
đức Phật trọng yếu dường nào!
Chúng ta học Thập Thiện
Nghiệp từ chỗ nào? Trong những năm gần
đây, chúng tôi thường nhắc nhở các đồng
học, mà cũng là nhắc nhở chính ḿnh, hăy thực
hiện Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên tức là
thật sự học Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Nếu [có kẻ nào] hỏi cách học Thập
Thiện Nghiệp Đạo là như thế nào, quư vị
hăy bảo kẻ ấy: “Hăy nghiêm túc học Đệ
Tử Quy và Cảm Ứng Thiên th́ sẽ là học Thập
Thiện Nghiệp Đạo”. Đă thành tựu hai thứ
ấy, quư vị sẽ viên măn Thập Thiện Nghiệp
Đạo. Trong Phật pháp, có một pháp môn đặc
biệt là kinh Vô Lượng Thọ, tức pháp môn Tịnh
Tông. Chỉ cần chúng ta có cơ sở này bèn có thể văng
sanh, cũng có nghĩa là đă có ba căn cơ Nho, Thích,
Đạo, thật sự vun bồi bền vững ba
căn ấy, chúng ta nương theo lư luận và
phương pháp trong kinh Vô Lượng Thọ để cầu
sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất
định thành tựu. Đến được Tây
Phương Cực Lạc thế giới là đạt
đến bờ kia rốt ráo. Do vậy, câu nói ở
đây chẳng phải là lời giả. Nhập Phật pháp
tạng là trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta nhất
định phải thực hiện ba căn cội
của Nho, Thích, Đạo, quư vị bèn nhập Phật pháp
tạng. Nhập nông cạn, chớ sợ! Đă có bổn
nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, sự
gia tŕ ấy chính là kinh Vô Lượng Thọ. Mỗi ngày,
quư vị đọc kinh Vô Lượng Thọ từ
đầu đến cuối một lượt, là
được A Di Đà Phật gia tŕ quư vị một
lần. Quư vị niệm mỗi ngày là được gia
tŕ mỗi ngày. Mỗi ngày nghe giảng, hiểu rơ ràng, minh
bạch đạo lư trong ấy, quư vị đă
được gia tŕ viên măn, lẽ nào chẳng văng sanh!
“Tam
cú nghĩa trung, toàn nhiếp Tịnh Độ pháp môn, Bồ
Tát nhất thiết sở hạnh, bất ly phương
tiện. Dĩ phương tiện cố, thủ ư Tịnh
Độ, đắc thường kiến Phật”
(Nghĩa lư trong ba câu ấy đă gồm thâu trọn
vẹn pháp môn Tịnh Độ và hết thảy các
hạnh của Bồ Tát, chẳng ĺa phương tiện.
Do dùng phương tiện mà giữ lấy Tịnh
Độ, nên thường được thấy
Phật). Phương tiện của Tịnh Tông trước
hết là làm một người tốt. Chẳng làm
một người tốt, sẽ chẳng có cách nào sanh
về thế giới Cực Lạc, chẳng có phần, phải
làm một người tốt! Nhưng chúng ta cũng
thật sự thấy, chẳng phải là giả, có
kẻ suốt đời tạo ác, lúc lâm chung gặp
gỡ bạn lành khuyên kẻ ấy “quay đầu là
bờ”, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
kẻ ấy nghiễm nhiên cũng thành tựu, đó là do nguyên
nhân nào? Điều ấy khiến cho nhiều người
hoài nghi. Trong ấy có đại đạo lư, đại
đạo lư ǵ vậy? Kẻ suốt đời tạo
ác, lâm chung sám hối, biết lỗi, quay đầu,
tội nghiệp bèn tiêu tan. Kinh Phật có tỷ dụ “nhà
tối ngàn năm”, căn nhà ấy chẳng có ánh sáng, bao
lâu? Một ngàn năm! Quư vị thắp một ngọn
đèn soi sáng, tối tăm chẳng c̣n nữa. Tối
tăm ví như tội nghiệp, “ngàn năm” là thời gian
tạo tội nghiệp rất dài. Quư vị một niệm
quay đầu, tức là quư vị thắp một ngọn
đèn, tối tăm chẳng c̣n nữa. Lời này cho chúng
ta biết: Tội lẫn phước đều chẳng
phải là thật, chúng đều sanh từ tâm
tưởng, là pháp sanh diệt, chẳng phải là
thật. Chỉ cần là pháp sanh diệt th́ như kinh Kim
Cang đă nói rất hay: “Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”,
pháp hữu vi là pháp sanh diệt. Giống như nằm mộng,
gặp ác mộng, tạo tội nghiệp là gặp ác
mộng, tạo nghiệp chịu khổ. Có người
đánh thức quư vị, sau khi tỉnh giấc, mộng
hoàn toàn chẳng c̣n nữa. Khi quư vị ở trong lục
đạo, thời gian tạo tác tội nghiệp rất
dài, cảm nhận khổ báo trong tam đồ, nay có thiện
tri thức đánh thức quư vị, quư vị liền giác
ngộ “lục đạo thật là khổ, ta muốn
về thế giới Cực Lạc”. Ư niệm vừa
chuyển, nghiệp bèn tiêu tan, nó chẳng c̣n chướng
ngại quư vị nữa!
Nghiệp tiêu nhiều hay ít, tùy
thuộc tín tâm của quư vị. Tín tâm kiên định,
chẳng có mảy may hoài nghi, nghiệp bèn tiêu hết. Có
những kẻ như thế nào? Ta tạo nghiệp
nhiều quá, thời gian tạo nghiệp quá lâu, như
vậy th́ có được hay không? Chỉ cần có một
niệm như thế, nghiệp của người ấy
chỉ có thể tiêu ít ỏi vài phần, c̣n phần
lớn chẳng thể tiêu được, vẫn có
thể chướng ngại kẻ ấy. Nếu chúng ta thật
sự hiểu đạo lư này, sẽ chẳng c̣n hoài nghi
nữa, biết tội nghiệp như thế nào đi
nữa, câu A Di Đà Phật thật sự có thể tiêu trừ
[nghiệp ấy], giữ chặt A Di Đà Phật, quyết
định chẳng buông lỏng. Trong tâm có A Di Đà Phật,
trong miệng có A Di Đà Phật, thân thể tạo tác cũng
giống như A Di Đà Phật, c̣n có thể nào chẳng văng
sanh ư? Ở đây nói “Bồ
Tát nhất thiết sở hành, bất ly phương
tiện” (hết thảy các hạnh của Bồ Tát
chẳng ĺa phương tiện), chẳng khác ǵ Thích Ca Mâu
Ni Phật ứng hóa trong thế gian này. “Dĩ phương tiện cố” (do dùng
phương tiện), đó là phương tiện thiện
xảo, “thủ ư Tịnh
Độ” (giữ lấy Tịnh Độ), phương
này chính là Tịnh Độ, Tịnh Độ chính là
phương này. “Đắc thường
kiến Phật” (thường được thấy
Phật), tâm ta chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chính
là tâm ta. Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo
tác đều có thể tương ứng với những
điều đă dạy trong kinh Vô Lượng Thọ.
Điều này giống như trong các tôn giáo thường
nói: “Ta và thần cùng tồn tại”, chúng ta cũng là cùng A
Di Đà Phật tồn tại. Trong Phật pháp, ư nghĩa
“cùng tồn tại” này được nói rất thân
thiết. Trung Phong quốc sư nói: “Tâm ta tức là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật
tức là tâm ta”, đấy chẳng phải là ta và A Di
Đà Phật cùng tồn tại ư?
“Dĩ
kiến Phật cố, văn pháp tu hành, nhập Phật pháp
tạng, viên măn giác tâm, cứu cánh bỉ ngạn” (do
thấy Phật nên nghe pháp tu hành, nhập Phật pháp
tạng, viên măn giác tâm, đạt đến bờ kia
rốt ráo). Đây là rốt ráo viên măn thành Phật trong
một đời. Nhập Phật pháp tạng, tánh,
tướng, lư, sự, nhân quả, viên măn giác tâm, không ǵ chẳng
thông đạt, hiểu rơ. “Cứu
cánh bỉ ngạn” là niệm niệm tương
ứng tự tánh. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật
đă nói: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”. Trong mỗi niệm, chúng ta đều
tương ứng với trí huệ và đức
tướng trong tự tánh. Đấy là đạt
đến “cứu cánh bỉ
ngạn”. Do vậy, kinh phải đọc thuộc,
phải hiểu rơ ư nghĩa, phải vận dụng trong
cuộc sống hằng ngày. “Nhược
vô phương tiện, vô lượng hành môn chung bất
thành tựu” (nếu không có phương tiện, vô
lượng hành môn trọn chẳng thể thành tựu).
Trí huệ chân thật, ĺa hết thảy tướng,
tức là hết thảy các pháp; v́ thế, buông xuống là
công phu bậc nhất của người tu hành. Buông chấp
trước xuống, buông phân biệt xuống, buông
khởi tâm động niệm xuống, điều này
chẳng dễ ǵ làm được, nhưng khởi
đầu từ [buông xuống] phân biệt và chấp
trước th́ chúng ta có thể làm được. Tuy
chẳng thể viên măn như Bồ Tát, nhưng chúng ta hăy bắt
đầu làm! Thời thời khắc khắc đều
có thể cảnh giác, điều này rất trọng
yếu. Đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện
tiền, từ TV, Internet, từ các phương tiện
thông tin, chúng ta thấy trên toàn thể thế giới có
nhiều tai nạn chẳng có cách nào tưởng
tượng nổi. Đối với người tu hành
mà nói, những tai nạn ấy có điểm lợi ích là
khiến cho chúng ta cảnh giác thế giới này thật
sự khổ sở, chẳng thể trụ trong thế
giới này! Mỗi ngày chúng ta thấy trong kinh đức
Thế Tôn đă giới thiệu thế giới Cực
Lạc, thế giới ấy tốt đẹp lắm! So
sánh hai thế giới, nguyện vọng cầu sanh thế
giới Cực Lạc sẽ nẩy sanh tràn trề, đó
là điều tốt đẹp. Nếu trên thế
giới này chẳng có tai nạn, chúng ta sẽ không muốn
ra đi, tuy niệm A Di Đà Phật vẫn chẳng
nỡ ĺa bỏ thế giới này. Do vậy, mỗi
lần có đại tai nạn, hiện tượng ấy
cũng độ rất nhiều người. Có lắm
kẻ thiện căn chưa chín muồi, trông thấy tai
nạn ấy, thiện căn bèn chín muồi, thật
sự muốn văng sanh, thật sự buông xuống. Do
vậy, Ngẫu Ích đại sư có nói hai câu rất tuyệt: “Cảnh duyên vô hảo xú,
hảo xú tại nhân tâm” (Cảnh duyên chẳng tốt
xấu, tốt xấu do ḷng người). Quư vị có cách
nh́n ra sao, hoàn cảnh chẳng có tốt hay xấu, quan hệ
giữa con người với nhau cũng chẳng có
tốt hay xấu, [tùy thuộc] quư vị có cách nh́n ra sao!
Nếu quư vị dùng tâm thái b́nh thường để nh́n,
sẽ chẳng có ǵ là bất hảo. Tâm thái bất b́nh
thường, hoàn cảnh ǵ cũng đều bất
hảo, xác thực là cảnh chuyển theo tâm. Hy vọng các
đồng học học Phật chúng ta đều có
thể dùng tâm để chuyển cảnh giới, đó là
điều tốt đẹp!
Tiếp đó, lăo cư sĩ
trích dẫn kinh Đại Bát Nhă để nói: “Như Đại Bát Nhă kinh vân: Thị
Bồ Tát do dữ Bát Nhă Ba La Mật Đa tương
ứng cố, tùng thử xứ một, sanh dư Phật độ.
Tùng nhất Phật quốc, chí nhất Phật quốc,
tại tại sanh xứ, thường đắc trị
ngộ chư Phật Thế Tôn, cúng dường, cung kính,
tôn trọng, tán thán, năi chí Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề, chung bất ly Phật” (Như kinh Đại
Bát Nhă nói: “Vị Bồ Tát này do tương ứng với
Bát Nhă Ba La Mật Đa nên từ chỗ này chết đi,
sanh trong các cơi Phật khác, từ một cơi Phật này
đến một cơi Phật khác, sanh ở nơi đâu cũng
đều thường được gặp gỡ
chư Phật Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn
trọng, tán thán, cho đến [khi chứng đắc] Vô
Thượng Chánh Đẳng Bồ Tát, trọn chẳng
ĺa Phật”). Đây là dạy dỗ chúng ta, chúng ta đă vun
bồi vững vàng ba căn bản, tu Tịnh Độ
như thế nào? Tu Tịnh Độ cũng phải là
“tâm chẳng ĺa Phật, hạnh chẳng ĺa Phật”,
sẽ thành tựu rất nhanh chóng. Ở đây đă nêu
một thí dụ, “Bồ Tát do
dữ Bát Nhă Ba La Mật Đa tương ứng cố”
(Bồ Tát do tương ứng với Bát Nhă Ba La Mật
Đa). Bát Nhă Ba La Mật Đa: Bát Nhă là trí huệ, Ba La Mật
Đa là bờ kia, cũng là bờ kia Niết Bàn. Câu này có
nghĩa là Bồ Tát có năng lực ấy, trong cuộc
sống hằng ngày, Ngài sử dụng trí huệ, chẳng
dùng tri thức, Bát Nhă là trí huệ. Tri thức và trí huệ
khác nhau! Cơ sở của trí huệ là tâm thanh tịnh,
cơ sở của tri thức là tâm ư thức. Trong tâm ư
thức có ư niệm, trong tâm thanh tịnh chẳng có ư
niệm, nên chúng khác nhau. Tối thiểu là phải buông Kiến
Tư phiền năo xuống, vẫn chưa thể gọi là
Bát Nhă. Buông Kiến Tư phiền năo xuống, tâm thanh
tịnh, chứng quả A La Hán.
Theo cách nh́n của giáo pháp Đại
Thừa th́ trong tam đức bí tạng (Pháp Thân, Bát Nhă và Giải
Thoát), A La Hán chỉ có một đức là Giải Thoát, mà
giải thoát vẫn chưa viên măn, được gọi
là giải thoát nửa vời, chưa chứng đắc Pháp
Thân, chẳng chứng đắc Bát Nhă. Cũng có thể
nói là A La Hán chẳng có trí huệ Bát Nhă. Phải nâng cao lên
một đẳng cấp, đạt đến Bồ
Tát, Bồ Tát có trí huệ Bát Nhă. Pháp Thân Bồ Tát đă chứng
đắc Pháp Thân, Bát Nhă, Giải Thoát, nên mới gọi là
“tương ứng”. Từ
tựa đề kinh này, thanh tịnh là điều chứng
đắc bởi A La Hán, b́nh đẳng là chứng
đắc của Bồ Tát, giác được chứng
đắc bởi Phật, đó là đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh. B́nh đẳng không dễ dàng, sau
khi đă thanh tịnh rồi th́ mới có b́nh đẳng. Đại
chúng trong xă hội hiện thời tâm chẳng thanh
tịnh, chẳng thanh tịnh th́ làm sao có thể b́nh
đẳng cho được? V́ sao? Sau Đệ Nhị
Thế Chiến, mọi người trên thế giới này
đều mong mỏi ḥa b́nh xuất hiện, nhưng măi
cho đến hiện thời, ḥa b́nh chẳng xuất
hiện! Xă hội mỗi năm một động
loạn hơn, tai nạn mỗi năm một nhiều
hơn. Do nguyên nhân nào? Tâm con người chẳng thanh
tịnh. Nói cách khác, trong xă hội hiện tiền,
điều quan trọng nhất là làm sao giúp cho người
ta đạt được tâm thanh tịnh. Tâm thanh
tịnh là điều mọi người đều luôn
mơ ước, mong cầu. Mong cầu thân tâm thanh
tịnh, v́ sao chẳng đạt được? Dục
vọng quá nhiều, chẳng thể buông dục vọng
xuống được. Do vậy, cổ nhân Trung Quốc nói:
“Tri túc thường lạc”
(biết đủ, thường vui sướng). Nếu con
người tri túc, tâm thanh tịnh bèn có thể khôi phục.
Người nếu chẳng tri túc, tâm kẻ ấy sẽ
vĩnh viễn chẳng thanh tịnh. Giống như
nước nổi sóng, chẳng b́nh lặng. Tri túc, sẽ
dần dần lắng xuống, sóng to trở thành sóng
nhỏ, sóng nhỏ trở thành gợn sóng, có thể khôi
phục thanh tịnh. V́ thế, phải tri túc th́ mới
được.
Quư vị thấy có phải là
Di Lặc Bồ Tát sẽ đến thành Phật trong nhân
gian hay không? Hiện thời Ngài ở nơi đâu? Tại
Đâu Suất Thiên. Đâu Suất nghĩa là ǵ? Tri túc. Di
Lặc Bồ Tát muốn hạ sanh thành Phật,
trước tiên phải tu Tri Túc trong tầng trời
Đâu Suất. Tu viên măn công phu Tri Túc rồi mới có
thể làm Phật, phổ độ chúng sanh. Chẳng tri
túc th́ làm sao được nữa? V́ sao Ngài phải
trụ trong Đâu Suất Thiên, chẳng trụ trong Tha Hóa
Tự Tại Thiên? V́ sao không trụ trong Đao Lợi
Thiên? Mang ư nghĩa biểu pháp, Bổ Xứ Phật, Bổ
Xứ Bồ Tát nhất định phải là từ Tri Túc
Thiên giáng hạ [nhân gian] làm Phật, toàn là ư vị giáo
học. Do vậy, có thể biết: Phật là pháp vương,
quốc vương và đế vương trong thế
gian cũng phải biết Tri Túc th́ ngồi trên ngai hoàng
đế mới thật sự có thể ích nước,
lợi dân. Ông ta tri túc. Nếu chẳng tri túc, sẽ
biến thành một gă vua bạo ngược, dân chúng
phải chịu khổ. Hoàng thượng tri túc, dân chúng
hưởng phước, cùng một đạo lư! Lại
thấp hơn một bực nữa sẽ là xí nghiệp,
nói theo t́nh trạng hiện thời. Chủ nhân xí nghiệp
tri túc, xí nghiệp ấy sẽ là xí nghiệp khuôn mẫu.
Chủ nhân tri túc, kiếm được tiền sẽ
nhất định cứu giúp dân nghèo, thực hiện
sự nghiệp phước lợi xă hội, việc kinh
doanh càng làm càng to lớn, càng làm càng dồi dào, càng thí càng
nhiều! Càng nhiều bèn càng làm nhiều hơn! Quư vị nói
xem sự biểu pháp của vị Bồ Tát này có dụng
ư sâu xa dường nào? Tri túc bèn thật sự có thể tu
phước, có thể tích đức. Kẻ chẳng tri
túc sẽ thiếu phước, kẻ không tri túc sẽ
bại đức, chẳng biết tu
đức.
Mấy câu kinh
ấy đă hiển thị thần thông và diệu dụng
của Bồ Tát. “Tùng thử
xứ một, sanh dư Phật độ” (từ
chỗ này chết, sanh trong các cơi Phật khác), như Di
Lặc Bồ Tát cơ duyên chín muồi, thời tiết,
nhân duyên đă chín muồi, bèn từ trời Đâu Suất
giáng hạ, giáng sanh trên địa cầu, nói thông tục
là “đầu thai”. Chẳng c̣n ở trong thiên cung Đâu
Suất nữa, xuất sanh trong thế giới này, Ngài có năng
lực ấy. Thế giới này rất lớn! Phải
độ chúng sanh trên
địa cầu, có phải độ những tinh
cầu khác hay không? Đương nhiên là phải
độ, khu vực giáo hóa của Ngài có phạm vi là
một tam thiên đại thiên thế giới. Trên mỗi tinh
cầu đều có chúng sanh, v́ sao? Tinh cầu là y báo, y báo chuyển
theo chánh báo. Chẳng có chánh báo sẽ chẳng có y báo! Y báo
và chánh báo đồng thời phát sanh; do vậy, trên mỗi
tinh cầu đều có chúng sanh sống trong đó. Có các chúng
sanh chẳng có cùng chiều không gian với chúng ta, nên chúng ta
chẳng thấy họ, mà họ cũng chẳng thấy
chúng ta. Chiều không gian cao hơn, có những chiều không
gian cao hơn chúng ta, chúng ta sẽ chẳng thấy họ,
nhưng họ trông thấy chúng ta. Do vậy, chẳng
thể nói chúng ta dùng phi thuyền bay đến thám hiểm
tinh cầu khác, phát hiện [ở đó] chẳng có ai,
một vùng hoang vắng, thê lương, đó là ǵ? Nhục
nhăn của chúng ta chẳng nh́n thấy, chứ thật ra là
có. Trên quả địa cầu này, người và quỷ
sống lẫn lộn, nhưng có rất nhiều
người chẳng hề thấy quỷ. Ta chẳng tin
tưởng, nhưng cũng có chẳng ít người
đă thấy quỷ, họ bèn thật sự tin
tưởng, duyên phận của mỗi người khác
nhau!
Tôi đă gặp một số
nghệ sĩ, diễn viên kể với tôi: Họ thật
sự thấy [quỷ]. Trong lúc quay phim, buổi tối quay
ngoại cảnh, quay tại nghĩa trang, sắp đặt
các đạo cụ để đóng phim tại đó, quỷ
cũng đến tham gia, thật sự gặp gỡ. Sau
khi quay phim xong, mọi người cũng cảm thấy rất
đói, thấy gần đó có quán nhỏ bán đồ
ăn vặt, mọi người đến cái quán nhỏ
ấy để ăn uống. Ăn xong, lái xe ra về, đến
ngày hôm sau bị tiêu chảy, [đều nghĩ] do ăn
những thứ đă bị hư nên nôn mửa, mửa ra
ǵ? Toàn là những thứ trời ơi đất hỡi!
Chuyện ǵ đây? Lại gọi điện thoại cho
mấy người bạn th́ họ nói: “Anh sao, tôi cũng
vậy, người khác cũng vậy”. Được
rồi, chúng ta lái xe đi t́m cái quán nhỏ ấy. Lái xe tới
đó, một băi tha ma, thứ ǵ cũng chẳng có! Gặp
phải quỷ rồi! Quỷ mở tiệm mà ta
đến đó ăn uống! Chẳng phải là một
người nói, mà bảy tám người đều nói
như thế! Người và quỷ sống lẫn
lộn mà! Quư vị có thể nói trên mặt trăng chẳng
có ai hay không? Quư vị có thể nói Hỏa Tinh chẳng có ai
hay chăng? Có chứ! Nói theo Phật pháp, chỉ cần có cơi
nước sẽ có người cư trụ. Y báo và chánh
báo trang nghiêm trong mười pháp giới, cảnh chuyển
theo tâm, lời ấy là thật, chẳng phải giả!
V́ thế, Bồ Tát có thể
từ chỗ này chết, sanh sang cơi Phật khác, từ cơi
Phật này sanh sang cơi Phật khác, sanh ở chỗ nào
đều thường gặp gỡ chư Phật Thế
Tôn. Đó là nói những vị Bồ Tát trong pháp hội này,
các Ngài chỉ cần thấy vị Bồ Tát nào đó thành
Phật một nơi nào đó đều hoan hỷ: “Chúng
ta đến tùy hỷ”, bèn mất ở nơi đây,
xuất hiện nơi kia. Đó là một cách nói. Trên
thực tế, các Ngài có năng lực quá lớn, chẳng
rời khỏi nơi đây mà có thể hiện thân nơi
kia, phân thân đấy mà! Người trong Tây Phương Cực
Lạc thế giới có bản lănh này. A Di Đà Phật
giảng kinh, giáo học, họ nghe nơi đó, bất
động. Họ nghe ở nơi đó. Trong thế
giới phương khác, Phật đang hoằng pháp bên
đó, họ cũng đến, phân thân đến đó, có
thể phân vô lượng vô biên thân, đồng thời
tham gia pháp hội của hết thảy chư Phật Như
Lai, họ có bản lănh ấy. Đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới sẽ thành tựu, v́ sao nhanh chóng
dường ấy? Thời gian thân cận chư Phật Như
Lai nhiều, có phước báo; nghe Phật thuyết pháp nhiều,
tăng trưởng trí huệ, thật sự là phước
huệ song tu, lợi hại hơn chúng ta nhiều! Chúng ta một
vị Phật cũng chẳng gặp, nghe kinh tại
đạo tràng này sẽ chẳng thể nghe kinh tại
giảng đường sát vách. Họ có thể
đồng thời phân thân, đồng thời đều
học được, người ta có năng lực
ấy, toàn là tiếp xúc chư Phật Như Lai,
vượt trỗi Đẳng Giác, Thập Địa, mỗi
ngày thân cận đại thiện tri thức như
vậy, lẽ đâu chẳng thành tựu!
Họ gặp gỡ chư Phật
Thế Tôn, quư vị thấy đó, “cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán”, đó
là tu phước; nghe pháp, tiếp nhận sự giáo huấn
là tu huệ. Cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ
Đề là mục tiêu tu học cao nhất, một phương
hướng, một mục tiêu, dũng mănh tinh tấn, “chung bất ly Phật”
(trọn chẳng ĺa Phật). Hiện thời chúng ta có
thể làm được hay không? Có thể làm được.
Chúng ta nghiệp chướng nặng nề, lắm phiền
năo, tuy chẳng thấy Báo Thân của Phật, nhưng trông
thấy tượng Phật, thấy kinh Phật. Chỉ
cần chẳng ĺa khỏi tượng Phật, chẳng
ĺa khỏi kinh Phật, mỗi ngày lễ bái, thân lạy Phật,
miệng niệm Phật, trong tâm nghĩ tưởng Phật,
Đại Thế Chí Bồ Tát đă dạy: “Ức Phật, niệm Phật”,
Ức (憶) là trong tâm
nghĩ tưởng Phật. “Hiện
tiền, đương lai tất định kiến Phật”
(hiện tiền, tương lai, nhất định
thấy Phật). Phật có ở cạnh ta hay không? Có,
nhưng chúng ta nghiệp chướng nặng nề,
chẳng nh́n thấy. Trong tâm chúng ta có cảm, Phật bèn có
ứng, Phật ở ngay bên cạnh chúng ta, trước
nay chưa hề rời ĺa, đó là ḷng đại từ
đại bi của Phật. Chư Phật Như Lai đă
phát nguyện: “Trong cửa nhà
Phật, chẳng bỏ một ai”, làm sao có thể
bỏ sót chúng ta cho được? Chẳng thể nào! Thường
nghĩ tới ân đức của Phật đối
với chúng ta, chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực học
tập. Trong kinh điển, đức Phật đă giáo
huấn quư báu tốt đẹp như thế, hăy nghiêm túc
học tập th́ mới là đúng.
“Đương
tri dục bất ly Phật, tu dĩ niệm Phật vi
nhân, như Hoa Nghiêm Thập Địa, thỉ chung bất
ly niệm Phật” (Hăy nên biết, muốn chẳng ĺa
Phật, hăy nên lấy niệm Phật làm nhân, như trong
kinh Hoa Nghiêm, hàng Thập Địa từ đầu
đến cuối chẳng rời niệm Phật), chúng
ta phải ghi nhớ câu này. Thập Địa trong Hoa Nghiêm
là Pháp Thân đại sĩ từ Sơ Địa cho
đến Thập Địa, trong bốn mươi
mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, đặc
biệt nêu lên Thập Địa, [nhưng ngụ ư] bao gồm
[các địa vị] thấp hơn như Thập Hồi
Hướng, Thập Hạnh, Thập Trụ, chẳng có địa
vị nào không niệm Phật. Điều cuối cùng trong
Tịnh nghiệp tam phước chính là nhập Phật pháp
tạng, điều thứ hai chưa nhập, điều
thứ ba là đă nhập, “phát
Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả”. Nhân quả
ấy không phải là nhân quả b́nh phàm! Nếu là nhân
quả b́nh phàm th́ v́ sao Đại Thừa Bồ Tát mới
học? Chúng ta đều biết nhân quả phổ thông là
“chớ nên sát sanh”, sát sanh là nhân, quả báo là trong
tương lai bị kẻ khác giết. Chớ nên trộm
cắp, trộm cắp th́ trong tương lai quư vị phải
trả nợ. Đă trả nợ lại c̣n phải kèm
thêm lợi tức, chẳng phải là chuyện tốt
đẹp. Sát sanh phải đền mạng, trộm cắp
phải đền tiền. Nhân quả thông khắp ba
đời, chẳng phải là một đời! Do
vậy, người hiểu nhân quả ba đời, tâm bèn
định, tự nhiên tri túc. Bị thua thiệt, bị
lừa gạt chẳng sợ, thật đấy, cổ
nhân nói chẳng sai: “Bị thua thiệt
là có phước”, là chuyện tốt, không phải là
chuyện xấu. Ta bị thua thiệt, kẻ khác chiếm
tiện nghi, đời sau, kẻ ấy phải trả
lại cho ta, phải đáp đền. Nay ta hoan hỷ
chịu thua thiệt, trong tương lai, kẻ ấy hoan
hỷ cúng dường, hoan hỷ trả nợ, như
vậy th́ có ǵ là chẳng tốt đẹp? Do vậy, tâm
niệm chiếm tiện nghi của kẻ khác bị
đoạn mất; chẳng làm chuyện tổn
thương, gây hại cho người khác nữa. V́ sao? Đă
giác ngộ, đă hiểu rơ, đă biết chân tướng
sự thật. Chúng ta biết những thứ nhân quả
ấy, [chẳng lẽ] Bồ Tát không biết? Đương
nhiên là biết. Vậy th́ Bồ Tát chẳng biết
loại nhân quả nào? Thật vậy, “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, khá
nhiều Bồ Tát chẳng biết, chỉ có Phổ
Hiền Bồ Tát biết. Do đó, các vị Bồ Tát văng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều
biết, niệm A Di Đà Phật là nhân, đến thế
giới Cực Lạc thành Phật là quả. Trong các
phần trước, đối với câu danh hiệu A Di
Đà Phật, chúng tôi đă báo cáo nhiều lượt, [câu
danh hiệu ấy] vốn là đức hiệu của
tự tánh. Ư nghĩa của câu danh hiệu toàn là tiếng
Phạn ấy dịch sang tiếng Hán th́ A dịch là Vô, Di
Đà dịch là Lượng, Phật dịch là Giác, [A Di
Đà Phật] là Vô Lượng Giác. Vô Lượng Giác là
tự tánh, tức là tự tánh của chúng ta. Niệm A Di
Đà Phật là niệm tự tánh của chúng ta. Tây
Phương Cực Lạc thế giới Pháp Tạng Bồ
Tát đă thành Phật, Ngài bèn dùng Vô Lượng Giác làm danh
hiệu. V́ vậy, niệm danh hiệu này là vừa niệm
ngài Pháp Tạng đă thành Phật, vừa
niệm đại giác viên măn trong tự tánh, tự tha
bất nhị, danh hiệu có công đức chẳng
thể nghĩ bàn. Do vậy, điều cuối cùng trong
Tịnh nghiệp tam phước, “tin sâu nhân quả” nhằm nói về chuyện này. Tin
sâu “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Niệm Phật
thành Phật, quyết định chân thật chẳng
dối, hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng.
Tiếp đó, “đọc tụng Đại Thừa, khuyến
tấn hành giả”, ba câu trước đó là tự
lợi, câu cuối cùng là lợi tha. Chính ḿnh đă thành
tựu rồi, nhất định phải giúp
người khác, toàn tâm toàn lực giúp đỡ người
khác. Làm khi nào? Khi đă có đôi chút thành tựu. Do vậy,
Quyền Giáo Bồ Tát, phạm vi này rất rộng, từ
sơ phát tâm cho đến địa vị Thập Tín
đều là Quyền Giáo Bồ Tát, là tiểu Bồ Tát, chưa
kiến tánh. Đă kiến tánh, minh tâm kiến tánh th́ là Bồ
Tát. Chưa kiến tánh th́ đều gọi là Quyền Giáo
Bồ Tát. Có làm hay không? Làm! Ta biết bao nhiêu, ta giảng bấy
nhiêu, chia sẻ với đại chúng, khuyên người
khác là khuyên chính ḿnh. Suốt đời Thích Ca Mâu Ni Phật
đă biểu diễn, nêu gương
cho chúng ta trong bốn mươi chín năm, chúng ta đă
thấy, hiểu rơ, học theo gương ấy là
đúng. Cuộc sống giáo học của lăo nhân gia trong
bốn mươi chín năm là hoạt động chánh
đáng b́nh thường trong Phật giáo. Trong bốn
mươi chín năm, chẳng làm kinh sám, Phật sự,
chẳng tổ chức pháp hội, cũng chẳng hề
cử hành Phật Thất một ngày nào, cũng chẳng hề
tụ tập đại chúng cùng nhau niệm Phật
suốt một cây hương! Chẳng hề có! Suốt đời
làm ǵ? Cả đời là giáo học, suốt ngày từ
sáng đến tối đều chẳng gián đoạn, nhất
cử, nhất động, một câu nói, một nụ
cười đều nhằm biểu thị pháp,
đều là giáo học. Bất luận là đối
với nhiều người, hay độ một hai người,
chẳng có ai không dạy, nhiệt t́nh, thành ư chân tâm như
vậy cảm động hết thảy chúng sanh. Nhục
nhăn của chúng ta chẳng nh́n thấy, trong kinh này có chép,
chư thiên các cơi trời Dục Giới và Sắc Giới,
tám bộ quỷ thần, ngạ quỷ, địa ngục,
súc sanh. Cớ sao [chúng sanh trong] địa ngục cũng
đến? Những vị từ địa ngục tham
gia pháp hội đều là Bồ Tát, hiện thân [làm tội
nhân] địa ngục trong các địa ngục
để giáo hóa chúng sanh, nghe Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
kinh, giáo học, họ cũng đến. Chẳng phải
là kẻ thật sự tạo tội nghiệp đọa
địa ngục, hạng người ấy chẳng ra
khỏi ngục được, v́ họ chẳng có phước
báo to lớn ấy. Trong địa ngục có rất
nhiều Bồ Tát, các Ngài đến đi tự do. Các Ngài
đến địa ngục để độ chúng sanh
trong địa ngục, nên hiện tướng địa
ngục. Chẳng có một ai rời Phật. Do vậy,
ở đây dạy chúng ta: “Thập
Địa Bồ Tát thỉ chung bất ly niệm Phật”
(Thập Địa Bồ Tát từ đầu tới
cuối chẳng ĺa niệm Phật), chúng ta có nên không niệm
Phật hay chăng? Bởi lẽ đó, Phổ Hiền Bồ
Tát thoải mái dường ấy, khuyên dạy các vị
Bồ Tát [trong Hoa Nghiêm hải hội] hăy cùng nhau
đến thế giới Cực Lạc, vầy đoàn đến
thế giới Cực Lạc bái kiến A Di Đà Phật.
Thế giới Cực Lạc cũng thật sự
rất náo nhiệt, chư Phật, Bồ Tát trong
mười phương thế giới đến
triều kiến liên miên chẳng dứt.
Đoạn văn ấy do
cư sĩ Bành Tế Thanh nói, “án
Bành thị chi thuyết, Bồ Tát độ sanh tu hữu
phương tiện, tối thắng phương tiện thị
giáo nhân niệm Phật” (xét theo lời ông Bành đă nói,
Bồ Tát độ sanh cần phải có phương
tiện, phương tiện thù thắng nhất là dạy
người ta niệm Phật). Câu này hết sức quan
trọng, chúng ta phải ghi nhớ, suốt đời
chẳng rời bỏ. Bất luận chỗ nào, thấy
người khác đều là “A Di Đà Phật”, đó là ǵ?
Dạy kẻ ấy niệm Phật, chẳng cần
biết kẻ ấy có tin hay không. Kẻ đó chẳng tin
th́ cũng đă nghe lọt vào tai rồi, hễ lọt qua
tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo.
Chủng tử Phật đă gieo trong ruộng thức
thứ tám, gặp mọi người đều là như
vậy. Đồng học học Phật nhận
điện thoại, cầm lấy điện thoại
bèn “A Di Đà Phật”, tốt lắm! Dưỡng thành [thói
quen] niệm niệm chẳng rời Phật, niệm niệm
chẳng rời A Di Đà Phật. “Niệm Phật sanh Phật quốc, kiến Phật
văn pháp, chung bất ly Phật, cố năng nhập Phật
pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn” (niệm
Phật, sanh về cơi Phật, thấy Phật, nghe pháp,
trọn chẳng ĺa Phật, nên có thể nhập Phật
pháp tạng, đạt đến bờ kia rốt ráo), thật
vậy, chẳng giả! Chỉ có chính ḿnh niệm Phật,
khuyên người khác niệm Phật, hiện thời
chưa thể nhập Phật pháp tạng, nhưng
thật ra đă gieo cái nhân nhập Phật pháp tạng. Sanh
về thế giới Cực Lạc sẽ là nhập Phật
pháp tạng. Đoạn văn này của ông Bành Tế Thanh
“thâm đắc kinh chỉ”
(thấu đạt sâu xa tông chỉ của kinh), đây là
lời Hoàng lăo cư sĩ tán thán ông Bành. Chúng ta c̣n có
thời gian, hăy xem đoạn kinh văn kế tiếp,
đoạn này khá dài!
(Kinh) Nguyện ư vô
lượng thế giới thành đẳng Chánh Giác. Xả
Đâu Suất, giáng vương cung, khí vị xuất gia, khổ
hạnh học đạo. Tác tư thị hiện, thuận
thế gian cố. Dĩ Định Huệ lực, hàng
phục ma oán. Đắc vi diệu pháp, thành tối Chánh
Giác. Thiên nhân quy ngưỡng, thỉnh
chuyển pháp luân. Thường dĩ pháp âm, giác chư
thế gian, phá phiền năo thành, hoại chư dục
tiệm. Tẩy trạc cấu ô, hiển minh thanh bạch.
Điều chúng sanh, tuyên diệu lư, trữ công đức,
thị phước điền. Dĩ chư pháp
dược, cứu liệu tam khổ. Thăng quán đảnh
giai, thọ Bồ Đề kư. Vị giáo Bồ Tát, tác A Xà
Lê, thường tập tương ứng vô biên chư hạnh,
thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn, vô lượng
chư Phật hàm cộng hộ niệm.
(經) 願 於 無 量 世 界 成 等 正 覺 。 捨 兜 率,降 王 宮,棄 位 出 家 , 苦 行 學 道,作 斯 示 現,順 世 間 故。以 定 慧 力,降 伏 魔 怨。得 微 妙 法,成 最 正 覺。天 人 歸 仰,請 轉 法 輪。常 以 法 音,覺 諸 世 間。破 煩 惱 城,壞 諸 欲 塹。洗 濯 垢 污,顯 明 清 白。調 眾 生,宣 妙 理,貯 功 德,示 福 田。以 諸 法 藥,救 療 三 苦。昇 灌 頂 階,授 菩 提 記。為 教 菩 薩,作 阿 闍 黎,常 習 相 應 無 邊 諸 行。成 熟 菩 薩 無 邊 善 根,無 量 諸 佛 咸 共 護 念。
(Chánh kinh: Nguyện trong vô
lượng thế giới thành Đẳng Chánh Giác. Bỏ Đâu
Suất, giáng hạ vương cung, vứt bỏ ngôi
vị, xuất gia, khổ hạnh học đạo.
Thị hiện như thế để thuận theo
thế gian. Dùng sức Định Huệ hàng phục ma
oán, đắc vi diệu pháp thành Chánh Giác cao tột. Thiên
nhân quy ngưỡng, thỉnh chuyển pháp luân.
Thường dùng pháp âm giác ngộ các thế gian, phá thành
phiền năo, hoại các hào dục, rửa sạch cấu
ô, hiển minh thanh bạch. Điều ngự chúng sanh, tuyên diệu
lư, trữ công đức, chỉ bày phước
điền. Dùng các pháp dược cứu chữa ba
khổ. Lên địa vị quán đảnh, thọ kư cho
Bồ Tát. Để dạy Bồ Tát bèn làm A Xà Lê,
thường tu tập vô biên các hạnh tương
ứng, thành thục Bồ Tát vô biên thiện căn, vô
lượng chư Phật đều cùng hộ niệm).
Chúng ta đọc lời chú
giải của Hoàng lăo cư sĩ: “Thượng đoạn mạt nhị cú, ‘nhập Phật
pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn’, tái tán đại
sĩ chi Thật Đức. Kim văn cập hạ văn
lưỡng đoạn, tắc tái tán Bồ Tát phổ ư
thập phương thị hiện bát tướng thành
đạo chi thù thắng Quyền Đức” (Hai câu
cuối trong đoạn trên, tức “nhập Phật pháp
tạng, đạt đến bờ kia rốt ráo” lại
khen ngợi Thật Đức của đại sĩ. Hai
đoạn văn gồm đoạn văn này và
đoạn kế tiếp lại khen ngợi Quyền
Đức thù thắng của Bồ Tát thị hiện tám
tướng thành đạo trọn khắp mười
phương). “Nhập Phật
pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn”, Bồ Tát thành
tựu viên măn trí huệ và đức tướng, đó là
những thứ vốn trọn đủ trong Tánh
Đức, sau khi chứng đắc nhất định
khởi tác dụng. Khi ấy, khởi tác dụng, chắc
chắn chẳng có khởi tâm động niệm, chúng ta
phải biết điều này. Giống như Lục
Tổ Huệ Năng đại sư đă nói minh tâm
kiến tánh th́ kiến tánh là như thế nào? Ngài nói
năm câu, văn tự không nhiều lắm, trên thực
tế chỉ có hai mươi chữ, nhưng đă
giảng rơ ràng, minh bạch chuyện này, thật sự khó
có! Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật ở dưới
cội Bồ Đề, thị hiện đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, Ngài cũng
đă nói ra. Ngài dùng mười bốn ngày, cũng là dùng thời
gian hai tuần, diễn nói kinh Đại Phương
Quảng Phật Hoa Nghiêm. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm là do
đức Thế Tôn thành Phật giảng trong
Định, chẳng lưu truyền trong nhân gian, chẳng
ai biết. Sau khi đă giảng trong Định xong,
Đại Long Bồ Tát thâu cất bộ kinh ấy do
đức Phật đă nói trong cung rồng. Số
lượng quá lớn, chẳng thể chuyển
đến giữ trong địa cầu. Phân lượng
nhiều cỡ nào? Sáu trăm năm sau, Long Thọ Bồ
Tát rất khó có, có duyên rất sâu với Đại Long Bồ
Tát, Đại Long Bồ Tát dẫn Long Thọ tới
thăm viếng cung rồng. Ngài Long Thọ thấy [kinh Hoa
Nghiêm] là tam thiên đại thiên thế giới vi trần
kệ, một tứ thiên hạ vi trần phẩm,
địa cầu của chúng ta làm sao có thể chứa
đựng được? Đó là báo cáo của Thích Ca Mâu
Ni Phật trong mười bốn ngày.
Nhưng chư vị phải
biết Lục Tổ Huệ Năng đại sư minh tâm
kiến tánh, có cùng một cảnh giới với Thích Ca Mâu
Ni Phật. Đức Thế Tôn ở Ấn Độ, nên
dùng thân Phật để đắc độ, Ngài bèn
hiện thân Phật. Huệ Năng đại sư ở Trung
Quốc, ở đất Trung Quốc th́ chẳng hiện
thân Phật, [người Hoa] chẳng có căn tánh tốt
đẹp như vậy, nên dùng thân tỳ-kheo để
đắc độ, lăo nhân gia hiện thân tỳ-kheo trong
một đời. Thật ra, cùng một cảnh giới,
chẳng khác ǵ nhau, nên dùng thân ǵ để đắc
độ bèn hiện thân ấy. Ngài nói hai mươi
chữ, triển khai th́ là Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh; Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh nếu rút gọn sẽ là hai
mươi chữ ấy, bất tăng, bất giảm. Nếu
người khác hỏi, Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm giảng những ǵ?
Quư vị dùng năm câu nói đó của Lục Tổ
để nói bèn nói trọn hết. Câu đầu tiên Ngài
nói: “Nào ngờ tự tánh,
vốn tự thanh tịnh”. Câu thứ hai nói: “Vốn chẳng sanh diệt”,
tức là Niết Bàn chẳng sanh, chẳng diệt. Câu thứ
ba là “vốn tự trọn
đủ”, tức là như trong Hoa Nghiêm, đức
Phật đă nói: “Hết
thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức
tướng của Như Lai”, tự tánh vốn tự trọn
đủ, tự tánh có vô lượng trí huệ, vô
lượng đức năng, vô lượng tướng
hảo, hết thảy đều là vô lượng, tự
tánh vốn trọn đủ mà! Câu thứ tư nói: “Vốn chẳng dao động”,
điều này thường được kinh Đại
Thừa nói là “tự tánh vốn
định”. Câu cuối cùng: “Có
thể sanh ra vạn pháp”, vô lượng vô biên các cơi
Phật, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới đều do tự tánh sanh, có thể sanh, có
thể hiện, hết thảy vạn pháp là cái
được sanh, được hiện. Nói rơ tất
cả hết thảy vạn pháp trong khắp pháp giới
hư không giới đều có cùng một tự tánh, có
cùng một tự tánh tức là cùng một Thể. Lăo Tử
đă nói: “Thiên địa dữ
ngă đồng căn, vạn pháp dữ ngă nhất thể”
(trời đất và ta cùng một căn, vạn pháp và ta
cùng một Thể) mang ư nghĩa này. Người Trung
Quốc nói luân lư th́ luân lư ấy chính là luân lư trong kinh Phật.
Luân lư là nói về quan hệ, ta và
người khác có quan hệ ǵ? Phật pháp nói tới quan
hệ rộng lớn, tinh vi, sâu xa, nói rất viên măn. Không
chỉ là quan hệ giữa con người với nhau
được nói rơ ràng, mà quan hệ với tất cả
động vật, quan hệ với thực vật, quan
hệ với hoa cỏ, cây cối, quan hệ với núi,
sông, đại địa, quan hệ với toàn thể hư
không pháp giới, nói rơ ràng như thế, một Thể mà!
Sự nhận biết này quan trọng hơn bất cứ
ǵ khác! Từ bi là đức bậc nhất trong tự tánh,
tinh hoa, cốt tủy của Tánh Đức là từ bi.
Chúng ta không biết những quan hệ ấy, không biết chúng
có quan hệ ǵ với chính ḿnh, cho nên tâm từ bi chẳng thể
sanh khởi. Hiểu rơ quan hệ, tâm từ bi sẽ sanh
khởi. Từ bi là ḷng yêu thương chân thành, là ḷng yêu
thương vĩnh viễn chẳng thay đổi,
chẳng giả! Trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một
ai! V́ sao? Một Thể mà! Người kiến tánh đều
biết, kẻ chưa kiến tánh chẳng hiểu, hễ
kiến tánh đều biết. Do vậy, sau khi thành Phật,
chúng sanh có cảm, Phật, Bồ Tát bèn có ứng. Trong Ứng
th́ thù thắng nhất là đại quyền thị hiện,
tám tướng thành đạo. Quư vị thấy đó,
những điều được nói trong đoạn kinh
văn này, từ “xả Đâu
Suất” đến “thành tối
Chánh Giác, thiên nhân quy ngưỡng”, măi cho đến lúc thị
hiện diệt độ, chính là tám tướng thành
đạo, đấy là sự nghiệp trong một
đời của Phật, Bồ Tát khi giáng sanh trong
thế gian, thị hiện cho chúng ta thấy nhằm
dạy chúng ta học tập, thân hành, ngôn giáo mà!
Tiếp đó, cụ Hoàng
giải thích đoạn kinh văn này: “Nguyện ư vô lượng thế giới thành Đẳng
Chánh Giác” (nguyện thành Đẳng Chánh Giác trong vô
lượng thế giới). V́ sao nguyện trong vô
lượng thế giới? Phật, Bồ Tát trong lúc tu
nhân đă phát nguyện ấy, Tứ Hoằng Thệ
Nguyện, “chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ”. Các đồng học
học Phật chúng ta, bất luận là tại gia hay xuất
gia đều đă phát, nhưng phiền năo, nghiệp
chướng quá nặng, thường quên bẵng nguyện
này, gặp chúng sanh khổ nạn nhưng đă quên
sạch sành sanh nguyện này, chẳng dấy lên ư niệm
giúp đỡ họ. Người nhà, quyến thuộc gặp
phải khó khăn th́ có thể nghĩ tới [nguyện
ấy], chứ các chúng sanh có khổ nạn ta chẳng
nghĩ đến. Nguyện thật sự phát khởi,
đến khi quư vị đại triệt đại
ngộ, trở thành Pháp Thân Bồ Tát, chứng đắc Phật
quả, sẽ thực hiện nguyện này, thực
hiện viên măn. Chúng sanh không nhất định phải
cầu cạnh quư vị, chỉ cần họ gặp khổ
nạn, tin tức khổ nạn truyền tới, quư
vị nhận được bèn có ứng. Từ sách Hoàn
Nguyên Quán, chúng ta thấy ba thứ trọn khắp, bèn
hiểu tin tức ấy truyền đi nhanh chóng
đến mức nào! Hiền Thủ quốc sư nêu
một thí dụ là một vi trần, trong Phật pháp
gọi một vi trần là “cực vi vi”, đại khái
tương đương với Lượng Tử
được phát hiện bởi Lượng Tử
Lực Học hiện thời, Lượng Tử c̣n
nhỏ hơn hạt cơ bản. Các nhà khoa học coi hạt
nhỏ nhất ấy là cơ sở vật chất,
hiện thời họ c̣n tiến hơn một
bước, nghiên cứu [nhận biết] Lượng
Tử là tiểu quang tử, nó là một thứ tạo
thành vật chất, c̣n nhỏ hơn hạt cơ bản.
Nó có ba thứ đặc tính, kinh Phật đă nói rơ,
nhưng các nhà khoa học vẫn chưa thể nói rơ ràng
như thế, chưa nói được. Tiểu quang
tử dao động, lập tức trọn khắp pháp
giới, chẳng có tốc độ nào nhanh hơn nó.
Tốc độ ánh sáng hay tốc độ sóng
điện từ đều thua kém rất xa. Khi nó
động sẽ trọn khắp pháp giới, cho nên tin
tức lan truyền hết sức nhanh chóng. Bất
luận người ấy hữu tâm, vô tâm, hữu ư, vô ư,
những tin tức như vậy bậc Bát Địa
Bồ Tát trở lên đều nhận được. Quư
vị thấy Bát Địa, Cửu Địa, Thập
Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác, năm địa
vị Phật, Bồ Tát ấy đều nhận
được. Sau khi đă nhận được, lẽ
nào các Ngài chẳng ứng? Hễ nhận được,
nhất định sẽ hồi ứng. Tốc
độ hồi ứng gần như đồng thời
với tốc độ cảm. V́ sao? Ứng cũng là
lập tức trọn khắp pháp giới. V́ thế, cái
hay của kiến tánh là ở chỗ này. Tin tức
trọn khắp pháp giới hư không giới, chẳng sót
một điều ǵ, hiểu rơ ràng, rành rẽ,
người ấy (người đă kiến tánh) khởi
tác dụng hồi ứng. Hồi ứng cũng chẳng
cần phải suy xét, chẳng hề suy xét, mà tự nhiên
hồi ứng, nhất định giúp đỡ quư
vị. Sự hồi ứng rơ rệt là tám tướng
thành đạo, người ấy đă hồi ứng!
Bởi lẽ, nguyện này là bổn
nguyện, là nguyện đă phát nơi nhân địa,
hiện thời hoàn toàn thực hiện, có năng lực “ư vô lượng thế
giới thành Đẳng Chánh Giác” (thành Đẳng Chánh
Giác trong vô lượng thế giới), chỉ nói một
câu này. Một câu bao hàm những điều khác, quư vị
thấy kể cả hiện thân thành Phật hóa độ
chúng sanh đều có thể, nên hiện làm Bồ Tát,
hiện làm Thanh Văn, hiện làm Duyên Giác, hiện làm
quốc vương, đại thần, đồng nam, đồng
nữ, cho đến hiện thành hoa cỏ, cây cối, núi,
sông, đại địa, không có ǵ chẳng thể thị
hiện. Rốt cuộc Ngài thị hiện bằng cách nào?
Chính ḿnh chẳng có ư nghĩ ǵ! “Tùy
chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo
tâm chúng sanh ứng hợp với khả năng nhận
biết của họ), kinh Lăng Nghiêm đă nói như
vậy. V́ thế, vẫn là do ư niệm của chúng sanh.
Chúng sanh có ư niệm như thế nào, Ngài dùng phương
pháp như thế ấy để cảm ứng. Chúng ta
chớ nên không biết đạo lư như vậy. Hiểu
đạo lư này, liễu giải chân tướng sự
thật, mới biết chư Phật, Bồ Tát và chúng ta cảm
ứng là sự thật, chẳng giả. Hơn nữa,
tốc độ cảm ứng vô cùng nhanh chóng, chúng ta có lúc
chẳng thể nhận biết, là do bản thân chúng ta nghiệp
chướng quá nặng. Nghiệp chướng nhẹ hơn
một chút sẽ có thể cảm nhận. Trong thế
gian, có những người được gọi là “có
công năng đặc dị”, họ có thể thấy,
nghe, đối với những tin tức truyền
đến chư Phật, Bồ Tát họ nghe thấy, có
những hiện tượng bị họ trông thấy,
chẳng phải là không có. Chúng tôi đi qua nhiều nơi,
đă thấy khá nhiều người lạ lùng, có
thật hay không? Có thể! Từ kinh Phật luôn có thể
t́m thấy những lư luận làm căn cứ [để
giải thích những hiện tượng ấy].
“Nguyện”,
kế tiếp là giải thích nguyện, “thệ nguyện dă” (là thệ nguyện), tứ hoằng
thệ nguyện. “Pháp Quật
viết: Ư xuất thế đạo hy cầu vi
nguyện. Hy giả, niệm dă, nguyện dă” (sách Pháp
Quật nói: “Mong cầu đạo xuất thế là nguyện.
Hy là niệm, là nguyện”). Do vậy, “hy cầu” (悕求) giống như chữ Hy (希) trong hy vọng. Trong tâm chúng ta có
điều mong cầu, trong nguyện có điều mong
cầu, có điều hy cầu. “Hựu
thế giới giả, Thế chỉ thời gian, Giới
chỉ không gian” (Lại nữa, “thế giới”:
Thế chỉ thời gian, Giới chỉ không gian). Kinh
Phật thường nói đến thế giới, các nhà
khoa học hiện thời nói là “thời - không” (thời
gian và không gian). “Thời - không”
như các nhà khoa học thường nói chính là “thế
giới” trong kinh Phật. “Thủ
Lăng Nghiêm Kinh viết: Thế vi thiên lưu, Giới vi
phương vị. Nhữ kim đương tri, Đông,
Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc,
thượng, hạ vi Giới. Quá khứ, vị lai, hiện tại vi Thế”
(Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: “Thế là dời
đổi, Giới là phương vị. Nay ông nên
biết: “Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông
Bắc, Tây Bắc, trên, dưới là Giới. Quá khứ,
vị lai, hiện tại là Thế”). Đây là đức
Phật giải thích chữ Thế Giới trong hội
Lăng Nghiêm. “Đẳng Chánh
Giác, kiến Đường dịch, thị vi tân dịch”
(Từ ngữ Đẳng Chánh Giác thấy trong bản
dịch đời Đường, là dịch theo lối
mới). Bản Ngụy dịch ghi là “Đẳng Giác”, tức
là cựu dịch. Đẳng Chánh Giác và Đẳng Giác có
cùng một ư nghĩa. Các vị dịch giả như Huyền
Trang đại sư dịch thành Đẳng Chánh Giác (Samyak-sambodhi); bản Ngụy dịch theo lối cựu
dịch, các bản cổ dịch trước thời Huyền
Trang đại sư đều dịch là Đẳng Giác.
Đẳng Giác có hai ư nghĩa, thứ nhất là “Đẳng Giác thị Bồ Tát
chi cực vị” (Đẳng Giác là địa vị
tối cực trong hàng Bồ Tát). Bồ Tát đạt
đến địa vị này bèn viên măn, chẳng c̣n có
[địa vị Bồ Tát nào] cao hơn nữa. Trên đó
là Diệu Giác, mà Diệu Giác là quả vị Phật. “Tương đắc Diệu
Giác chi Phật quả. Kỳ trí huệ công đức đẳng
tự Diệu Giác, cố vị chi Đẳng Giác”
(sẽ đắc Phật quả Diệu Giác, trí huệ,
công đức gần giống như Diệu Giác, nên
gọi là Đẳng Giác). Cũng có nghĩa là là Đẳng
Giác Bồ Tát kém Phật một bậc, tiến cao lên
nữa sẽ là địa vị Diệu Giác. Theo kinh Hoa
Nghiêm, địa vị Bồ Tát có năm mươi
mốt đẳng cấp, thấp nhất là địa
vị Thập Tín. Địa vị Thập Tín cũng
rất lỗi lạc, từ nhân gian của chúng ta tu hành
đến mười pháp giới đều là các
địa vị thuộc Thập Tín. Tổ sư tông Hoa
Nghiêm đă rất chú tâm nói rơ cặn kẽ sự chứng
đắc trong các địa vị này như thế nào,
nói theo nguyên tắc chung th́ toàn bộ đều là buông
xuống.
Do vậy, tôi học Phật, thoạt
đầu, thầy dạy tôi, tôi hỏi Ngài: “Có bí
quyết nào để nhập Phật môn hay không? Có
phương pháp nào để khế nhập rất nhanh hay
không?” Thầy dạy tôi “nh́n thấu, buông xuống”. Nh́n
thấu suốt giúp quư vị buông xuống. Buông xuống
lại giúp quư vị thấy thấu suốt. Hai
điều này từ sơ phát tâm cho đến địa
vị Như Lai, giúp nhau thành tựu, bí quyết ở ngay
chỗ này. Thầy chẳng lừa gạt tôi, ngay hôm
đầu tiên đă dạy tôi bí quyết ấy. Nếu
chúng ta muốn tiến cao hơn, chẳng buông xuống
sẽ không được. Thầy nói, năm mươi
mốt cấp bậc Bồ Tát ví như năm mươi
mốt tầng của một ṭa cao ốc, quư vị
chẳng bỏ tầng thứ nhất sẽ không lên
được tầng thứ hai. Chẳng bỏ tầng
thứ hai, sẽ không lên được tầng thứ ba,
luôn luôn bảo quư vị hăy buông xuống. Một mực buông
xuống, quư vị sẽ đạt tới chỗ đăng
phong tạo cực, sẽ thành công. Chúng ta phàm phu gặp
phiền phức là do không buông xuống được, bởi
lẽ, chẳng buông xuống được sẽ vĩnh
viễn chẳng thể tiến cao hơn. Quư vị
thấy v́ sao hiện thời chúng ta chẳng thể
tiến tới địa vị Sơ Tín? Do chẳng buông Kiến
Hoặc xuống được. Buông xuống bèn là Tu
Đà Hoàn, tức là địa vị Sơ Tín Bồ Tát
trong kinh Hoa Nghiêm. Buông Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ
Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến xuống, buông
xuống năm thứ kiến giải sai lầm đó, quư
vị sẽ chứng đắc. Bí quyết không có ǵ khác, bí
quyết là buông xuống! Học Phật, thật sự
học Phật chẳng có ǵ khác! Thật sự học
Phật là học buông xuống! Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta học tới đây.
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
Phần 51 hết
[1] Dép cỏ (thảo hài) là một loại
sandal bện bằng cỏ, lác, rơm v.v..., thường
dùng nhất là cỏ tranh, hoặc rạ, có nhiều h́nh
thức, thông thường là bện thành h́nh giống
như sandal có quai chéo, có khi bện thành
h́nh một chiếc giầy có thể xỏ chân vào.
Loại thảo hài này cũng được các dân tộc
chung quanh bắt chước sử dụng như loại
waraji của Nhật thường bện bằng rạ,
hoặc thân cây bắp. Người Đại Hàn dùng
cỏ bện thành giầy, lót thêm vải và giấy
cứng làm đế để có thể sử dụng lâu
hơn.
[2] Hành lang Hà Tây (Hà Tây tẩu lang: 河西走廊) c̣n gọi là Cam Túc Tẩu Lang, kể
từ rặng Ô Tiêu ở phía Đông cho đến ải
Ngọc Môn ở phía Tây, nằm giữa Nam Sơn (gồm
các rặng Kỳ Liên Sơn, Altyn-Tagh) và Bắc Sơn (Mă
Tông Sơn, Hợp Lê Sơn và Long Thủ Sơn). Đây là
một vùng b́nh địa dài và hẹp, trông giống như
một hành lang nên được gọi là “hành lang”. Lại do vùng này nằm ở phía Tây Hoàng
Hà nên gọi là Hà Tây Tẩu Lang. Khu vực này bao gồm khu
vực Lan Châu của tỉnh Cam Túc, tức là bao gồm
bốn quận Vũ Oai (tức Lương Châu thời
cổ), Trường Dịch (thời cổ là Cam Châu),
Tửu Tuyền (Túc Châu) và Đôn Hoàng (Sa Châu), kể cả
Tây An (kinh đô Trường An thời cổ). Do vùng này thuộc
lănh thổ nước Tần thời Chiến Quốc, nên
khi các lănh chúa chiếm giữ vùng này xưng đế, đều
lấy quốc hiệu là Tần.